CHÙA HƯNG SƠN – DIỀM: MỤC LỤC, LỜI NÓI ĐẦU, PHẦN I: NHỮNG BÀI VIẾT CỦA CHƯ TĂNG NI VỀ CHÙA HƯNG SƠN LÀNG DIỀM (Phần 1)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Tỷ khiêu Tiến sĩ Thích Quảng Hợp

(Chủ biên)

 

CHÙA

HƯNG SƠN-  

DIỀM

(Ảnh chụp bìa sách xuất bản lần đầu năm 2022, NXB Tôn giáo)

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

CHÙA  HƯNG SƠN-  DIỀM

 

 

 

 

 

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Tỷ khiêu Tiến sĩ Thích Quảng Hợp

(Chủ biên)

 

 

 

 

CHÙA HƯNG SƠN – DIỀM

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………………………

Phần I

 NHỮNG BÀI VIẾT CỦA CHƯ TĂNG NI VỀ CHÙA HƯNG SƠN LÀNG DIỀM

  1. Vài nét lược Sử Chùa Hưng Sơn, khảo cứu câu đối, hoành phi với văn học Phật giáo

Tỷ khiêu Tiến sĩ Thích Quảng Hợp…………………………………………………………..

  1. Chùa làng Diềm – Thành phố Bắc Ninh

Thượng tọa Tiến sĩ Thích Thanh Phương chùa Sủi – Gia Lâm, TP Hà Nội

  1. Chùa Diềm (Hưng Sơn Tự) Nơi duyên lành ghi dấu ấn Thầy tôi

Tỷ khiêu ni Thích Đàm Định, Trụ trì chùa Vua, Hà Nội…………………………………….

Phần II

CÁC BÀI VIẾT CỦA NHÀ KHOA HỌC, NGHIÊN CỨU, TRI THỨC

  1. Chùa Làng Diềm (Chùa Hưng Sơn) trong lịch sử Phật giáo Luy Lâu và với cuộc sống hôm nay

Tác giả: PGS.TS. Hoàng Thị Thơ – Viện Nghiên cứu tôn giáo VN……………….

  1. Chùa Viêm Xá

Tác giả: Lê Văn Sơn – Nguyên Cán bộ Ban QLDT –Sở VH tỉnh Bắc Ninh….

  1. Tín Ngưỡng Thờ Tự Tại Chùa Diềm

Tác giả: Nguyễn Quang Khải – Nguyên Phó Giám đốc sở Bắc Ninh…

  1. Hưng Sơn Tự – Ký Ức Và Hiện Tại

Tác giả. Nguyễn Kim Tích – Bút danh Nguyên Bình – Làng Diềm………………

  1. Kiến Trúc Chùa Hưng Sơn Xưa

Tác giả: Nguyễn Văn Màng – làng Diềm…………………………………………………..

  1. Số liệu cung cấp niên đại xây dựng cụm di tích làng Diềm

Tác giả: Nguyễn Văn Chuộng – làng Diềm……………………………………….

  1. Làng Diềm, lần theo câu hát

Nhà báo Bùi Đăng BằngNguyên Tổng Biên tập Tạp chí Người cao tuổi….

  1. Chùa Hưng Sơn làng Diềm Ngẫu hứng suy luận

Tác giả Nguyễn Văn Thư làng Diềm……………………

  1. Ký Ức Về Làng Diềm Và Chùa Hưng Sơn  “Những Dấu Ấn Của Tuổi Thơ Tôi”

Tác giả: Trần Đình Vạn – Nguyên Hội trưởng Người Cao Tuổi Viêm Xá……

  1. Chùa Diềm – đi rồi lại muốn quay về

Tác giả: Viên Quang – Đinh Anh Tuấn TP Hải Phòng……………………….

  1. Sự Kế Thừa Và Phát Triển Tư Tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ Của Đại Đức Thích Quảng Hợp Trụ Trì Chùa Hưng Sơn – Bắc Ninh

Tác giả: Tiến sĩ. Lê Thị Thu Dung TP Hải Phòng………………………………

  1. Chùa Diềm Quê Hương Yêu Dấu

Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Trà – Làng Diềm

  1. Vu Lan Báo Hiếu Chùa Hưng Sơn làng Diềm

Tác giả: Quốc Minh – Diềm……………………………………………………………………

  1. Chùa Diềm

Tác giả: Đỗ Lương Điền – TP Hà Nội………………………………………….

  1. Hưng Sơn Cổ Tự

Tác giả: Đỗ Lương Điền – TP Hà Nội

  1. Chùa Diềm

Tác giả: Nguyễn Đức Phú, TP Hà Nội……………………………………………………

  1. Lục Bát Chùa Diềm

Viên Quang – Đinh Anh Tuấn…………………………………………………………………..

  1. Xúc Cảm Chùa Làng Diềm

Viên Quang – Đinh Anh Tuấn…………………………………………………………….

  1. Chùa Làng Diềm Cảm Xúc

Viên Quang – Đinh Anh Tuấn…………………………………………………………

  1. Họa Thơ Lục Bát Chùa Diềm

Tỷ khiêu Tiến sĩ Thích Quảng Hợp……………………………………………………………..

  1. Quán Lá Rụng Sân Chùa

Nguyễn Hoàng Anh – Phúc Anh……………………………….

  • Thiền Danh

Nguyễn Hoàng Anh – Phúc Anh ……………………………………..

  • Thăm Mái Chùa Xưa

Tác giả: Tỷ khiêu ni. Thích Diệu Thủy – Đà Lạt………………………………

  • Nhớ Về Một Ngôi Chùa

Tác giả: Tỷ khiêu ni. Thích Diệu Thủy – Đà Lạt……………………………………..

  • Quan Họ Duyên Quê

Tác giả: Tỷ khiêu ni. Thích Diệu Thủy – Đà Lạt……………………………………..

  • Lần Đầu Thăm Chùa Diềm

Tác giả: Nguyễn Huy Hoàng – TP Hải Phòng………………………………

  • Chùa Diềm Bắc Ninh Quê Ta

Tác giả: Hoàng Nhất – Gia Bình, Bắc Ninh…………………………………………

  • Bài Thơ Kính Dâng Đại Đức Quảng Hợp

Tác giả: Tỷ khiêu ni. Thích Nữ Trung – tỉnh Bắc Ninh………………………………….

PHỤ LỤC: CÁC TƯ LIỆU VÀ VĂN BIA

  • Khoa Cúng Tổ Chùa Viêm Xá (bản phiên âm) …………………………………
  • Các bài văn khấn tại chùa Hưng Sơn…………………………………………..

Văn Khấn Trước Tam Bảo…………………………………………………….

Văn khấn Đức Thánh Hiền………………………………………………………….

Văn Khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát……………………………………….

Văn Khấn Đức Quán Âm Bồ Tát………………………………………………..

Văn Khấn Lễ Đức Ông……………………………………………………………….

Văn khấn Lễ Mẫu Tại Chùa Hưng Sơn………………………………………………

Văn Khấn Lễ Chư Tổ Tại Nhà Tổ……………………………………………………..

  • Một số hình ảnh về Chùa Hưng Sơn………………………………………………
  • Phương danh Quý vị phát tâm tịnh tài ấn tống cuốn sách này……………

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………..

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Xin được gửi lời tri ân, lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả Quý vị đang cầm trên tay cuốn sách về lịch sử chùa làng Diềm tức Hưng Sơn tự – “Chùa Hưng Sơn – Diềm”.

Để có được cuốn sách với những bài viết về lịch sử chùa Diềm, bên cạnh còn có những sáng tác với dạng bút ký, văn, thơ,… là tâm nguyện, cũng như công sức của cả một tập thể gồm chư Tôn đức Tăng – Ni, quý học giả, trí thức, nhà nghiên cứu, đạo hữu, Phật tử gắn bó, đồng hành cùng với sự hình thành, phát triển của ngôi cổ tự mang tên Hưng Sơn.

Với cá nhân tôi cũng vậy. Sau hơn 10 năm được chính quyền các cấp, người dân, Phật tử địa phương tin tưởng, giao phó trọng trách kế thừa, phát huy những giá trị lịch sử, tôn giáo của ngôi chùa nằm trên mảnh đất Kinh Bắc xưa, nay là khu Viêm Xá, phường Hoà Long, thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh. Hiểu được trọng trách và trách nhiệm của mình, bên cạnh việc đồng hành cùng với sự phát triển của Dân tộc, của Đạo pháp, thông qua những hoạt động hướng tới cộng đồng, xã hội, còn là trăn trở mang ý nghĩa của đạo Phật, của lời Phật dạy áp dụng vào đời sống thường nhật của nhân dân địa phương.

Như Quý vị đã biết, với lịch sử tồn tại lâu đời, theo lời kể của bô lão trong làng Diềm, cùng dữ liệu bản dập quả chuông cổ chùa Hưng Sơn đúc năm 1649, 2 văn bia còn lưu giữ trong chùa, Hưng Sơn tự như một bảo chứng mạnh mẽ cho ý chí, cho tinh thần của đất và người làng Diềm. Trong dòng chảy hào hùng ấy, rồi sau thời gian sống ở đây, lắng nghe chia sẻ của rất nhiều thế hệ người làng Diềm, về ngôi chùa thân thương của mình, cùng với đó là khát khao, là mong muốn có được một cuốn sách giúp cho việc tìm hiểu, lưu lại mai sau, bằng ghi chép lịch sử thật đầy đủ, chính xác về mái chùa Hưng Sơn uy nghiêm, trải năm tháng, với việc phong hoá của thời gian vẫn sừng sững đứng giữa đất trời. Cuốn sách này ra đời trong ngữ cảnh, mong muốn và khát khao ấy.

Kể từ ngày phát động vào 25/9/2022, dự kiến cuốn sách này sẽ ra mắt bạn đọc vào 25/9/2023, nhưng quá trình tìm hiểu, tra cứu về lịch sử, thu thập dữ liệu, thông tin đã gặp không ít những khó khăn, trở ngại. Để cuốn sách ra đời, tới tay bạn đọc với đầy đủ, chính xác về dữ liệu lịch sử, nội dung, tôi cùng với Nhóm tác giả đã phải tiết chế cảm xúc chờ đợi thêm một năm, nhằm tìm hiểu, bổ sung để tất cả bài viết được đầy đủ, trọn vẹn. Qua đây, tôi cũng xin gửi tri ân, cảm ơn tới chư Tôn đức, lãnh đạo ban ngành các cấp, đặc biệt là ông Ngô Công Thiết – Chủ tịch UBND phường Hoà Long, Thầy nghiệp sư – Hoà thượng Thích Nguyên Hạnh, PGS – Tiến sĩ Hoàng Thị Thơ, Ni sư Thích Đàm Định, Nhà báo Bùi Đăng Bằng, Nhóm tác giả và biên tập, cùng Phật tử, thí chủ địa phương, thập phương đã bỏ cả sức người, sức của góp phần cho việc cuốn sách về lịch sử chùa Hưng Sơn (chùa Diềm) được ra đời bằng xương bằng thịt. Trong quá trình viết bài, biên tập, xuất bản, không thể tránh được những khiếm khuyết, mong quý vị đọc giả cho ý kiến đóng góp, xây dựng để lần tái bản sau cuốn sách này được đầy đủ và trọn vẹn hơn.

Nhân mùa an cư năm 2024, Phật lịch 2568, nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ, cũng như gửi tới Quý vị cùng gia quyến, thân quyến lời chúc sức khỏe, bình an, hạnh phúc, vạn sự hanh thông.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Bắc Ninh, ngày 18 tháng 06 năm 2024

                                                                        Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phần I

 NHỮNG BÀI VIẾT CỦA CHƯ TĂNG NI VỀ CHÙA HƯNG SƠN LÀNG DIỀM

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vài nét lược Sử Chùa Hưng Sơn, khảo cứu câu đối, hoành phi với văn học Phật giáo

Tỷ khiêu Tiến sĩ Thích Quảng Hợp

  1. Sơ lược Chùa Hưng Sơn làng Diềm TP Bắc Ninh

Kính thưa Quý vị. Bài này, tác giả dùng các phương pháp như: So sánh, đối chiếu, chép dịch, phân tích, bình luận, chứng minh.v.v để làm sáng tỏ tiêu đề cần trình bày trên….

Chùa Hưng Sơn có tên chữ Hán là Hưng Sơn tự. Hay, thường được gọi là chùa Diềm, chùa Viêm Xá. Vì, chùa Hưng Sơn nằm ở làng Viêm Xá (làng Diềm) nay thuộc Khu Viêm Xá, Phường Hòa Long, Thành phố Bắc Ninh – Tỉnh Bắc Ninh.

Như chúng ta đã biết, đạo Phật có xuất xứ từ Ấn Độ, người khai sang đạo Phật là Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (624 – 544 TCN[1]). Đạo Phật ra đời nhằm “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” (giúp chúng sinh nhận biết được việc giác ngộ, từ đó thấy được Phật tánh trong tâm mình). Hay, đạo Phật hướng dẫn chúng sinh làm việc lành lánh xa việc ác, cứu giúp chúng sinh hết khổ, được vui, trên tinh thần: Từ bi và trí tuệ, vô ngã và vị tha. Từ cái nôi là Ấn Độ, đạo Phật hình thành đã có sức lan tỏa rộng khắp bốn phương, trong đó có Việt Nam. Theo sử ta, đạo Phật được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường, đường thủy từ phía Nam lên, đường bộ từ phía Bắc xuống. Theo Cuốn Phật học Phổ Thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa quyển 2 nhà xuất bản Tôn giáo (2007) trang 46 – 47 cho biết có bốn vị có công truyền giáo đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ba vị như: Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương theo thuyền bằng đường thủy  từ Ấn Độ qua Việt Nam rồi mới tới Trung Hoa. Riêng ngài thứ tư là Mâu Bác người Trung Hoa đã đi đường bộ từ phương Bắc xuống Việt Nam.

là do công lớn của Thiền Sư Khương Tăng Hội, Thiền sư Đạt Ma Sư Tổ, và những bậc tiếp nối trứ danh cần kể gồm xuất gia và tại gia như: Cư sĩ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Tổ sư Huyền Quang, …

Đạo Phật du nhập tới đâu đều hòa mình với văn hóa bản địa một cách kỳ diệu. Kỳ diệu như chính sự giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Với Bắc Ninh, mảnh đất Kinh Bắc xưa cũng vậy. Và, như trung tâm Phật giáo Luy Lâu nay còn lưu dấu tích thuộc huyện Thuận Thành, bên cạnh là chùa Dâu, chùa Phật Tích, Chùa Hưng Sơn, … Đạo Phật với con dân làng Diềm không ngoài việc hoà mình đó. Đến, đã và đang mang lại cho ngôi làng cổ ngày xưa, một ngôi làng nằm dưới núi Kim Lĩnh, bên bờ sông Cầu cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Và, đó là mảnh đất địa linh nhân kiệt, thiêng liêng từ rất lâu đời, được khơi dậy Phật tính trong từng con người. Nơi đây, còn có Đền thờ Vua Bà Thủy Tổ Quan họ. Có Đình Diềm vẻ vang. Có Đền Cùng – Giếng Ngọc. Có Nghè quan đô thống, …

 Theo các lão ông, lão bà trong làng kể lại, Chùa Hưng Sơn chữ Hán là Hưng Sơn Tự (興 山 寺) thường gọi là chùa Diềm, hay Viêm Xá là ngôi chùa cổ nơi quê hương gốc quan họ làng Diềm cổ xưa, nay thuộc khu Viêm Xá, phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại chùa Hưng Sơn làng Diềm xưa ở vị trí Mả Bến (bên ngoài cổng Đông). Theo sự bào mòn của thời gian lịch sử khách quan đem lại, chùa lâu ngày xuống cấp hư hỏng nặng, chùa đã được di chuyển về vị trí bây giờ. Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Văn Lợi viết về “Làng Diềm sử tích và truyền thống” tháng 1 năm 2001 trang 39 thì chùa Hưng Sơn được xây dựng vào năm Canh Dần (1610), địa điểm nằm trên trục đường làng sát ngã tư, liền kề với Đền Đức Vua Bà. Tác giả đã chỉ ra được phần nào về nguồn gốc của Chùa Hưng Sơn, cho tới bài báo ngắn ngọn súc tích nhất khác như bài: “Di tích Phật giáo Chùa Diềm” của Cổng thông tin điện tử  tỉnh Bắc Ninh – Cơ quan chủ quản: Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bắc Ninh cho biết “Chùa Diềm là nơi bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ kế tiếp nhau của cộng đồng dân cư làng Diềm. Sự tồn tại của chùa Diềm còn góp phần khơi dậy lòng tự hào, yêu quê hương đất nước, được nhân dân địa phương trân trọng gìn giữ” đăng vào lúc 07h44’ ngày 22/11/2022 theo nguồn tin Tổng Hợp. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những bài viết như thế mà không nghiên cứu tỉ mỉ chu đáo sâu rộng hơn thì chúng ta không thể đáp ứng những ước vọng của những người ham học hỏi về giá trị văn hóa, đạo đức Phật giáo và dân tộc trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão ngày nay. Kể từ khi tôi được chính quyền và nhân dân địa phương thôn Viêm Xá làm đơn thỉnh tôi về trụ trì chùa Hưng Sơn vào tháng 07 năm 2014 tới nay. Hiện nay diện tích chùa Hưng Sơn là: 3344 mét vuông[2] (Ba ngàn ba trăm bốn mươi bốn mét vuông).

cùng với các tài liệu hiện có trên 2 bia đá trùng tu chùa Hưng Sơn (1683 và 1777) còn lưu, bên cạnh bản dịch quả chuông cổ (có từ năm 1649, hiện được lưu giữ ở Viện Hán nôm ngày nay), chùa Hưng Sơn được khai mở do Sư là Tỷ khiêu hiệu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo. Tỷ khiêu Hải Thuần sinh năm Đinh Hợi, quê ở Xã Vân Khám, Huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Trước, Sư tu ở chùa Bảo Quang trên núi Lãm, sau được dân làng mời về trụ trì chùa Hưng Sơn, Xã Viêm Xá, Huyện Yên Phong phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Khi ấy, thấy chùa xuống cấp, Sư bèn phát đạo tâm, cùng nhân dân quyên góp tài lực trùng tu lại chùa để xứng tầm quy mô khi trước, với những hạng mục gồm: Thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, gác chuông, tam quan, … Cũng như, làm mới tượng Phật A Di Đà lớn, Quan Âm, Thế Chí, Thánh giả A Nan, Già Lam (tức Chúa Ông), và đã soạn văn bản vào tháng 5, khắc bia vào ngày lành tháng 6 năm Đinh Dậu (1777) để đời sau thêm tỏ, đạo nghiệp dài lâu, tỏa sáng cùng nhật nguyệt.

Theo bản văn đúc mới chuông chùa Hưng Sơn năm Phúc Thái thứ 7 (1649 tức Kỷ Sửu) đời vua Lê Chân Tông, có bà Lê Thị Ngọc Liêm pháp danh Diệu Thái, quê ở Xã Thanh Liệt, Huyện Thanh Trì phủ Thường Tín nước Đại Việt sống ở Trung Đô Vương phủ, và Tăng lữ xuất gia trụ trì chùa Hưng Sơn là Đỗ Thị Ngọc Cảnh hiệu Diệu Như cùng các vương công, thập phương tín thí phát tâm công đức tiền của đúc quả chuông lớn nặng tới hàng ngàn cân có dư, nhằm nguyện cầu quốc thái dân an, Phật, Bồ tát gia hộ, cứu độ chúng sinh mau được giác ngộ. Quả chuông này nay không còn. Tới năm 25/08/2003, nhân dân địa phương thỉnh sư thầy Thích Diệu Thủy (thế danh Đỗ Thị Thủy) (Sơn môn chùa Chân Tiên – Hà Nội) về trụ trì chùa Hưng Sơn. Sư thầy là bậc chân tu, năm 2007 độ được một đệ tử pháp danh là Thích Huệ Khánh thế danh Nguyễn Mộng Hiền, sống rất hòa hợp, đoàn kết cùng nhân dân sở tại.

Chùa Hưng Sơn năm 2016 – Ảnh: Phúc Trí

Năm 2003, một  doanh nghiệp trẻ tên Nguyễn Tiến Vượng, cư ngụ tại số 118 Bà Triệu, Hà Nội cùng gia đình, bạn bè và nhân dân địa phương đã phát tâm xây dựng ngôi nhà 7 gian tại chùa Hưng Sơn. Tới ngày 25/5/2004 làm lễ lạc thành, để thờ chung cả chư vị Tổ sư và chư vị Thánh Mẫu. Tới ngày 4/7/2006, Thầy Thích Diệu Thủy cùng nhân dân địa phương và thập phương đã khởi công xây dựng mới ngôi Tam bảo, và hoàn thành vào ngày 20/12/2006. Vào ngày 07/12/2012, sư thầy Thích Diệu Thủy vì Phật sự hoằng pháp lợi sinh, đã bàn giao lại chùa cho nhân dân trông nom, quản lý. Ngày 02/07/2014, Phật tử và lãnh đạo địa phương Thôn Viêm Xá – Thời ấy, ông Nguyễn Văn Tư làm trưởng thôn, ông Nguyễn Văn Trí làm bí thư chi bộ, ông Trần Đình Vạn làm hội trưởng hội người cao tuổi, nhờ quen biết chư Tăng như: Thầy Thanh Dương, thầy Diệu Chung, Ni sư Đàm Định (chùa Vua – Hà Nội) giới thiệu, đã thỉnh Đại đức Thích Quảng Hợp, quê Hải Phòng,  là đệ tử của Hòa thượng Thích Nguyên Hạnh (chùa Tảo Sách – Hà Nội) về trụ trì, hoằng pháp, phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân địa phương.

(Cổng cổ Chùa hưng Sơn, TP Bắc Ninh,2016: Ảnh QH)

Được biết, Đại đức Thích Quảng Hợp lúc đó, mặc dù đã trông nom chùa Song Quỳnh (Huyện Gia Bình – Bắc Ninh), nhưng vẫn dốc lòng vì sự tin tưởng của nhân dân địa phương, cùng đoàn kết góp phần tâm sức xây dựng chùa cảnh ngày một to đẹp và khang trang hơn. Vào ngày 24/07/2015 (Ất Mùi), Đại đức Thích Quảng Hợp cùng với nhân dân và Phật tử gần xa đã xây dựng một lúc hai công trình gồm: 5 gian nhà Tổ[3] trên nền đất Tam Bảo cũ và Lầu Quan Thế Âm[4] thờ Đức Quan Thế Âm bằng đá trắng, tượng Quan Âm này được tín chủ Ngô Văn Trung con ông Lại làng Diềm công đức. Vào ngày 10 tháng 06 năm 2016 Đại đức Thích Quảng Hợp bảo vệ luận án Tiến sĩ Triết học Phật giáo tại Học Viện khoa học xã hộiViện Hàn Lâm Việt Nam,  Đến năm 2018, Đại đức tiếp tục cùng với nhân dân Phật tử gần xa xây dựng trai đường 7 gian và các công trình khác như: lát lại toàn bộ sân chùa bằng gạch đỏ, cải tạo vườn tược, tạc tượng, sơn chùa cho phù hợp, lát nền gỗ Tam Bảo với cảnh thiền gia[5]. Hằng năm ngoài việt giảng kinh thuyết pháp từ thiện, phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân, cứ 2 năm nhà chùa mở khóa Quy Y Tam Bảo bằng hình thức thi trắc nghiệm để tạo điều kiện cho các Phật tử quy y nắm rõ lịch sử văn hóa Phật giáo, giáo lý để ứng dụng vào cuộc sống tu an lạc, và góp phần vào tháo gỡ nội kết, phiền não trong tâm thức trong tâm thức, an lạc trong cuộc sống, đóng góp xây dựng giúp đời giúp đạo tốt đẹp hơn. Như hình ảnh dưới minh họa việc  quy y Tam Bảo này.

Khu vườn tháp Chùa Hưng Sơn cạnh chợ Diềm, 2024. Ảnh: Văn Thành

Chùa Hưng Sơn hiện nay có khoảng vài ngàn mét vuông, bao gồm tường bao xung quanh, cổng chùa cổ, qua cổng đến sân Tam Bảo, lầu Quán Âm, chính điện, nhà Tổ, nhà mẫu, nhà tòa soạn, vườn cây xanh mượt. Kiến trúc Chính Điện Chùa Hưng Sơn được thiết kế chữ “丁” đinh, bảy gian tiền đường hậu cung hai gian một dĩ, thuộc gỗ tứ thiết, tường xây gạch trát phẳng sơn trắng, mái lợp ngói mũi hài, cột hiên, bậc bằng đá xanh, tượng Phật, hoành phi câu đối bài trí theo kiểu miền Bắc. Nhà Tổ thiết kế hình chữ “一” năm gian bằng gỗ, nhà Mẫu cũng thiết kết hình chữ “一” dài bảy gian bằng gỗ, xây trang trí hoành phi câu đối cửa võng khá đầy đủ như Chính điện trên vậy. Nhà Mẫu xây năm 2003, Chính điện chùa Hưng Sơn xây dựng năm 2006, Nhà Tổ và Lầu Quán Âm xây dựng cùng năm Ất Mùi (2015).

Phông lễ động thổ xây Nhà Tổ và Lầu Quán Âm Chùa Hưng Sơn, 2015

Một vài năm sau nhà chùa cùng địa phương vẫn dùng nguồn vốn xã hội hóa công đức lát sân toàn bằng gạch đỏ hạ long, tạo ra một ngôi chùa dáng dấp cổ xưa hiện về, thật mộng mơ.

  1. Hoành phi câu đối chùa Hưng Sơn đối với văn học Phật giáo Việt Nam.

2.1.Hoành phi, câu đối Chính điện Tam Bảo Chùa Hưng Sơn

(Chính Điện Tam Bảo Chùa Hưng Sơn, năm 2023)

–  Hoành phi, câu đối Cung Đức Ông

Chữ Hán:

(Ảnh: Gian thờ Chúa Ông Chùa Hưng Sơn, năm 2023)

下在德龍

願力惟深職掌禅門主宰

神威有赫權知法界伽藍

Phiên âm:

Long đức tại hạ

Nguyện lực duy thâm chức chưởng thiền môn chúa tể

Thần uy hữu hách quyền tri pháp giới già lam.

Dịch nghĩa:

Đức ông che chở

Nguyện mong chúa ông nắm giữ quyền hành Thiền môn.

Thần thông có thể quyền tri pháp giới già lam

Cung Hộ Pháp Khuyến Thiện

Chữ Hán:

雲風肅威

大智眼圓明天上人間開暗昧

Phiên âm:

Vân phong túc uy

Đại trí nhãn viên minh thiên thượng nhân gian khai ám muội

Dịch nghĩa:

Mây thuận gió hòa

Mắt trí tuệ tròn đầy khai sáng khắp trên trời dưới đất.

Cửa hành lang bên phải Tam Bảo

Chữ Hán

照普光佛

Phiên âm:

Phật quang phổ chiếu

Dịch nghĩa:

Hào quang Phật chiếu khắp.

Chữ trên Nóc Chùa Hưng Sơn

Chữ Hán:

歲次丙戌年拾月初六日巳時豎柱上梁大吉大利

Phiên âm:

Tuế thứ Bính Tuất niên thập nguyệt sơ lục nhật tỵ thời thụ trụ thượng lương đại cát đại lợi.

Dịch nghĩa:

Vào giờ tỵ ngày mồng sáu tháng mười năm Bính Tuất đặt nóc dựng xà là đại cát đại lợi.

Hoành phi, câu Đối chính  giữa Tam Bảo, hàng thứ nhất

Chữ Hán:

殿寳碓大

嚴荘正依

Phiên âm:

Đại hùng bảo điện

Ychính trang nghiêm

Dịch nghĩa:

Bảo điện đại hùng

Y báo chính báo trang nghiêm

Câu đối

Chữ Hán

十方過現未來世假空别别至中圓

諸佛法報應化身名相多多原一體

Phiên âm:

Thập phương quá hiện vị lai thế giả không biệt biệt chí trung viên

Chư Phật pháp báo ứng hóa thân danh tướng đa đa nguyên nhất thể.

Dịch nghĩa:

Mười phương thế giới quá hiện vị lai đều giả không thể viên tròn.

Chư Phật pháp báo ứng hóa thân danh tướng đều cùng chung một thể.

  • Hoành phi, câu đối phía trái Tam Bảo

Hoành phi

Chữ Hán

渡普船慈

Phiên âm:

Thuyền từ phổ chiếu

 

Dịch nghĩa:

Thuyền từ độ khắp

Câu đối:

妙行門究竟 此方他作界傳持

Phiên âm:

Diệu hạnh môn cứu kính thử phương tha tác giới truyền trì

Dịch nghĩa:

Rốt ráo pháp môn diệu hạnh duy trì pháp giới mọi nơi

  • Hoành phi, câu đối hàng Tam Bảo thứ 2

Chữ Hán:

佛 法 無 邊

千百億世界化身聽暗導迷天上日

四十九春秋說法 開 權 顯 實聖中王

Phiên âm:

Phật pháp vô biên

Thiên bách ức thế giới hóa thân thính ám đạo mê thiên thượng nhật.

Tứ thập cửu xuân thu thuyết pháp khai quyền hiển thực thánh trung vương.

Dịch nghĩa:

Phật pháp là vô biên

Trăm ngìn triệu hóa thân thế giới giải ám mê nhờ thiên thượng nhật.

Bốn mươi chín năm thuyết pháp khai quyền hiển thật bởi thánh trung vương.

  • Hoành phi, câu đối, hàng Tam Bảo thứ  3

Chữ Hán

相等平具

空而色色而空無边眞妙

佛即心心即佛自在莊嚴

Phiên âm:

Cụ tướng bình đẳng

Không nhi sắc sắc nhi không vô biên chân diệu

Phật tức tâm tâm tức Phật tự tại trang nghiêm.

Dịch nghĩa:

Mọi tướng bình đẳng

Không mà sắc sắc mà không vô biên chân diệu

Phật là tâm tâm là Phật tự tại trang nghiêm.

 Hoành phi, câu đối hàng Tam Bảo thứ 4

Chữ Hán:

師人天

貝葉風傳西土慈雲流 蔭遠

楊枝水洒南天枯 樹帶春 回

Phiên âm:

Thiên nhân sư

Bối diệp phong truyền tây độ từ vân lưu ấm viễn

Dương chi thủy tẩy nam thiên khô thụ đái xuân hồi.

Dịch nghĩa:

Thầy của trời người.

Bối diệp lan truyền phía Tây mây từ lưu ấm mãi

Dương chi rưới nước trời Nam cây khô mang xuân về.

  • Hoành phi, câu đối Cung Hộ pháp Trừng Ác

Chữ Hán:

漢鋃髙氣

Phiên âm:

Khí cao ngân hán

Dịch nghĩa:

Chí khí cao tận trời xanh

  • Hoành phi, câu đối Ban Thờ Đức Thánh Hiền.

Chữ Hán

心歸法萬

依經啓教蒙山㑹上法惟心

代佛宣揚結集場中僧弟一

Phiên âm:

Vạn pháp quy tâm

Y kinh khải giáo mông sơn hội thượng pháp duy tâm

Đại Phật tuyên dương kết tập tràng trung tăng đệ nhất.

Dịch nghĩa:

Vạn pháp do tâm.

Theo kinh khai mở hội thượng mông sơn pháp duy tâm.

Thay Phật tuyên dương kết tập tràng tăng là thứ nhất.

  • Các câu đối ở hai đồng trụ ngoài Tam Bảo

Chữ Hán

示 其 常 而 歸大 覺 編 度 世 人

垂 方 便 以 利 群 生 通 身 顯 應

Phiên âm:

Thị kì thường nhi quy đại giác biên độ thế nhân

Thùy phương tiện dĩ lợi quần sinh thông thân hiển ứng.

Dịch nghĩa:

Người thị hiện luôn giác ngộ cứu độ khắp chúng sinh.

Tùy phương tiện hiển ứng thông thân làm lợi chúng sinh.

貝 葉 風 傳 西 土 慈 雲 流 蔭 遠

楊 枝 水 洒  南 天 枯 樹 帶 春 回

Phiên âm:

Bối diệp phong truyền tây độ từ vân lưu ấm viễn

Dương chi thủy tẩy nam thiên khô thụ đái xuân hồi

Dịch nghĩa:

Bối diệp lan truyền phía Tây mây từ lưu ấm mãi

Dương chi rưới nước trời Nam cây khô mang xuân về.

大 智 鏡 圓 明 天 上 人 間 開 暗 昧

慈 航 施 妙 化 此 方 他 界 作 傳 持

Phiên âm:

Đại trí kính viên minh thiên thượng nhân gian khai ám muội.

Từ hành thí diệu hóa thử phương tha giới tác truyền trì

Dịch nghĩa:

Mắt trí tuệ tròn đầy khai sáng khắp trên trời dưới đất.

Thuyền từ khéo hóa độ phương này duy trì pháp giới kia.

  • Các câu đối khắc trên cột đá xanh hiên Tam Bảo.

Chữ Hán:

佛 道 無 窮 日 月 長

國 家 有 永 山 河 固

Phiên âm:

Phật đạo vô cùng nhật nguyệt trường

Quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố

Dịch nghĩa:

Đạo Phật có vô cùng mặt trời trăng mới bền lâu

Quốc gia có hưng thịnh thì núi sông mới kiên cố.

Chữ Hán

聞 含 經 教 開 迷 路

靜 慈 鍾 聲 覺 酲 塵

Phiên âm:

Văn hàm kinh giáo khai mê lộ.

Tĩnh từ chung thanh giác trình trần

Dịch nghĩa:

Nghe lời kinh dạy thoát đường mê.

Định tiếng chuông từ tỏ trần trình..

Chữ Hán

佛 日 增 輝 永 垂 萬 古

法 論 常 轉 遍 照 十 方

Phiên âm:

Phật nhật tăng huy vĩnh thùy vạn cổ

Pháp luân thường chuyển biến chiếu thập phương

Dịch nghĩa:

Tuệ Phật sáng thêm tồn tại mãi mãi.

Giáo pháp thường quay soi sáng mười phương.

  • Đại tự treo ngoài hiên gian giữa Tam Bảo.

Chữ Hán:

(Ảnh Đại tự có chữ: Hưng sơn Thiền Tự, năm 2023)

興 山 禪 寺

Phiên âm:

Hưng Sơn Thiền Tự

Dịch nghĩa:

Chùa Hưng Sơn

Chữ trên nóc cuốn thư ngoài trời Tam Bảo mới

Chữ Hán:

普 照

Phiên âm:

Phổ chiếu.

Dịch nghĩa:

Soi chiếu khắp.

2.2.Hoành phi, câu đối nhà Tổ (hay Chùa Hưng Sơn cũ sửa lại làm nhà Tổ)

Câu đối Chữ Hán:

寶 鼎熱名香瑞噴神龍從上出

振宮傳慧燭光浮体屬似中飛

Phiên âm:

Bảo đỉnh nhiệt danh hương thụy phún thần long tòng thượng xuất

Chấn cung truyền tuệ chúc quang phù thể chúc tự trung phi.

Dịch nghĩa:

Hương trong đỉnh báu cháy khói bay tựa rồng phun cát tường trên cao.

Hình ở cung chấn nổi truyền ánh đuốc tuệ giống bay trong không trung.

Chữ Hán

荘嚴佛像規摸永保延長

壯麗國家社稷 莫安 攸久

Phiên âm:

Trang nghiêm Phật tượng quy mô vĩnh bảo diên trường

Tráng lệ quốc gia xã tắc mộ an du cửu.

Dịch nghĩa:

Phật tượng trang nghiêm quy mô được bảo vệ mãi.

Quốc gia tráng lệ xã tắc chắc yên lâu dài.

Chữ Hán:

遵 奉覺皇深顯應身於尊者

Phiên âm:

Tuân phụng giác hoàng thâm hiển ứng thân ư tôn giả.

Dịch nghĩa:

Vâng lời Giác Hoàng để lộ ứng thân thật cho tôn giả.

Chữ Hán:

佛身充滿廣垂瑞像蔭 人民

世號興山淨位羅圖太族

Phiên âm:

Phật thân sung mãn quảng thùy thụy tượng ấm nhân dân

Thế hiệu Hưng Sơn tịnh vị la đồ thái tộc.

Dịch nghĩa:

Thân Phật rất rộng lớn che chở nhân dân bình an.

Tìm được vị trí sạch sẽ ở núi Hưng Sơn nơi trần gian như bức tranh đẹp là rất hiếm.

Chữ Hán:

動感光

Phiên âm:

Động cảm quang

Dịch nghĩa:

Hào quang năng động

Chữ Hán:

萬徳圓彰

Phiên âm:

Vạn đức viên chương

Dịch nghĩa:

Vạn đức tròn đầy viên mãn..

Chữ Hán chú thích trong Đại tự Vạn Đức Viên Chương:

住持比丘朗新作

Phiên âm: Trụ trì Tỷ Khiêu Lãng tân tác

Dịch nghĩa:

Trụ trì Tỷ khiêu Lãng làm mới đại tự “Vạn đức viên chương”.

Chữ Hán:

興山寺

Phiên âm:

Hưng Sơn Tự

Dịch nghĩa:

Chùa Hưng Sơn.

Câu đầu nhà Tổ

Chữ Hán:

南無阿彌陀佛

南無十方三寶

Phiên âm:

Nam mô A Di đà Phật

Nam mô thập phương tam bảo.

Dịch nghĩa:

Kính lạy Phật A Di Đà

Kính lạy mười phương Tam Bảo.

  • Chữ trên nóc nhà Tổ của Chùa Hưng Sơn

(Ảnh ban thờ Nhà Tổ Chùa Hưng Sơn, 2023)

Chữ Hán:

佛 曆歲次乙未年 八 月 二 十 一 日 吉 時 豎 柱 上 梁 大 吉 利

Phiên âm:

Phật lịch tuế thứ Ất Mùi niên bát nguyệt nhị thập nhất nhật cát thời thụ trụ thượng lương đại cát lợi.

Dịch nghĩa:

Phật lịch, vào giờ cát ngày hai mươi mốt tháng tám năm Ất Mùi (2015) dựng nóc nhà được đại cát đại lợi.

Một số chữ Hán được khắc trên cột chùa Hưng Sơn cổ còn sót lại

Cột gỗ cạnh sư trụ trì còn sót mất chữ Hán như sau:

社…信…阮氏…字福仁…

Phiên âm:

Xã… Tín…Nguyễn Thị…Tự Phúc Nhân…

Dịch nghĩa:

Xã…tín…Nguyễn Thị…Tự Phúc Nhân…

Cột gỗ bênẢnhAnhrAnhraa phía phải hướng ngoài nhìn vào ban nhà Tổ ghi chữ Hán sau:

(Ảnh: Những chữ Nho cổ khắc trên cột chùa Hưng Sơn cổ xưa còn lưu lại ghi dưới, 2023)

一 本 社 茲

信 主 阮 德 膀 并 妻  阮 氏 成 阮 德 虔  字 瑞 說 號 慈 非 并 妻 阮 氏 坦 字 興 祖 妣 號 慈 賢 所 員 铁 林 功 德 大 柱 一 木 供 焉. 五 曆 在 佛 前. 歲 次 己 丑 年 三 月 吉 日.

Phiên âm:

Nhất bản xã tư

Tín chủ Nguyễn Đức bảng tịnh thê Nguyễn thị thànhNguyễn Đức kiền tự Thụy duyệt hiệu từ  phi tịnh thê Nguyễn thị thản tự Hưng tổ tỷ hiệu từ hiền sở viên thiết lâm công Đức đại trụ nhất mộc cúng (?). Ngũ lịch tại Phật tiền .Tuế thứ kỷ Sửu niên tam nguyệt cát nhật.

Dịch nghĩa:

Một làng xã xưa có tín chủ Nguyễn Đức Bảng và Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Đức Kiền tự Thụy Duyệt hiệu Từ Phi và Nguyễn Thị Thản tự Hưng Tổ Tỷ hiệu Từ Hiền cùng phát tâm công đức một cây gỗ to để làm chùa. Phật lịch, năm Kỷ Sửu tháng ba ngày lành[6].

2.3.Hoành phi câu đối nhà thờ mẫu chùa Hưng Sơn

Câu đối cột đồng trụ nhà Mẫu

Chữ Hán:

究鏡高

Phiên âm:

Hành môn chân cứu kính cao siêu thập thánh dữ tam hiền

Tuệ nhãn đại viên minh cùng tận nhất thùy tinh tứ trí.

Dịch nghĩa:

Thực hành cứu kính chân siêu việt thập thánh cả tam hiền.

Mắt trí tuệ sáng tròn đầy thấu cùng tận tinh tứ trí.

Dịch nghĩa:

Chữ Hán:

西

西

Phiên âm:

Đâu suất tây trung quốc lương tề hán ngụy dĩ lai

Tây phương hữu thánh nhân thiên địa quỷ thần nhất niệm.

Dịch nghĩa:

Từ trời Đâu suất chuyển tới Lương, Tề, Hán, Ngụy Trung Quốc.

Phương Tây đã nghĩ đến Thánh, trời, người, địa quỷ thần.

Chữ Hán:

便

Phiên âm:

Thùy phương tiện dĩ lợi quần sinh thông thân hiển ứng

Thị kì thường nhi quy đại giác biến độ nhân dân.

Dịch nghĩa:

Tùy phương tiện hiển ứng thông thân làm lợi chúng sinh.

Người thị hiện luôn giác ngộ cứu độ khắp người đời.

Các câu đối trên cột đá hiên nhà Mẫu chùa Hưng Sơn

Chữ Hán:

恩蕩

Phiên âm:

Thúy trúc hoàng hoa tại Phật tâm

Thiên ân đãng đãng mặc vương cơ

Đâu suất thiên cao pháp vũ triêm

Vạn thiện đồng quy Bát Nhã hoa

Nhất trần bất nhiễm Bồ Đề địa

Từ bi địa tịnh hương vân niểu[7]

Phật đức nguy nguy phù quốc mạch.

Thanh phong quy nguyệt chân thiền vị.

Dịch nghĩa:

Trúc xanh hoa vàng ở tâm Phật

Ơn trời đã hết chẳng vương cơ

Trên trời đâu suất tuôn pháp vũ

Vạn thiện đều quy hoa Bát Nhã

Tâm Bồ đề chẳng nhiễm bụi trần

Mây khói từ bi trong mềm mại

Đức Phật lồng lộng hộ nước thái

Gió mát nương trăng chân thiền vị.

  • Các Đại tự hiên nhà Mẫu

Chữ Hán:

   

  

Phiên âm:

Văn tư tu

Hưng Sơn Thiền tự

Tuế thứ Giáp thân niên mạnh xuân cát nhật tạo

Dịch nghĩa:

Nghe, tư duy, sửa

Chùa Hưng Sơn

Vào ngày cát tháng xuân năm Giáp Thân thực hiện làm đại tự.

Chữ Hán

興山

Phiên âm:

Thiền phong vĩnh chấn

Hưng sơn thiền tự

Tuế thứ Giáp thân niên mạnh xuân cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Thiền phong giữ vững

Chùa Hưng Sơn

Vào ngày cát tháng xuân năm Giáp Thân thực hiện làm đại tự.

Chữ Hán:

興山

Phiên âm:

Giới định tuệ

Hưng Sơn Thiền tự

Tuế thứ Giáp thân niên mạnh xuân cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Giới định tuệ

Chùa Hưng Sơn.

Vào ngày cát tháng xuân năm Giáp Thân thực hiện làm đại tự.

  • Chữ Hán:

興山

Phiên âm:

Tổ ấn trùng quang

Hưng Sơn thiền tự

Tuế thứ Giáp Thân niên mạnh xuân cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Vào ngày cát tháng xuân năm Giáp Thân thực hiện làm đại tự.

Chữ Hán:

西

興山

Phiên âm:

Chích lí Tây quy

Hưng Sơn thiền tự

Tuế thứ Giáp Thân niên mạnh xuân cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Chỉ cần về Tây

Chùa Hưng Sơn

Vào ngày cát tháng xuân năm Giáp Thân thực hiện làm đại tự.

Các câu đối trong nhà Mẫu

Chữ Hán:

Củng nhất tại nhân gian thân thị hằng nga tâm thị Phật.

Trùng tam quy đế mệnh gia xưng từ mẫu quốc xưng vương.

Dịch nghĩa:

Hai mốt ở nhân gian, thân ấy Hằng Nga tâm ấy Phật.[8]

Ba lần theo mệnh đế, nhà xưng từ mẫu nước xưng vương.

Chữ Hán

滿

Phiên âm:

Từ phụ ứng thân phúc tuệ trang nghiêm hằng tế độ

Đàm hoa hiện thụy sắc hương thanh tịnh mãn phân phương.

Dịch nghĩa:

Phúc tuệ của Từ Phụ ứng thân trang nghiêm tế độ.

Hoa Đàm nở sắc lành hương thơm thanh tịnh bay ngát.

 

(?)

Phiên âm:

Tiên tiền dụ hậu (?) đăng tục diễm chấn thiền tông

Dịch nghĩa:

Trước là rộng lượng sau là..tiếp nối đèn tuệ giữ tông thiền

稱聖

Phiên âm:

Nam bang xưng thánh mẫu thái âu việt khúc ngưỡng từ quang

Dịch nghĩa:

Nước Nam có thánh mẫu ca ngợi đều hướng tới từ quang.

Chữ Hán

鞋真

Phiên âm:

Vân cát khởi thiên tiên hoa kết hương hài chân sắc tướng.

Dịch nghĩa:

Vân mây hiện tiên trời sắc tướng giày tóc thật đẹp thơm.

Chữ Hán

鼻祖

Phiên âm:

Truyền Bắc truyền Nam lịch đại tương thừa xưng tỵ tổ.

Dịch nghĩa:

Truyền từ Bắc vào Nam các thế hệ nối tiếp gọi là thủy Tổ

  • Các bài vị thờ tại nhà mẫu:

Chữ Hán

潘笵

Phiên âm:

Hiển linh thái phan phạm môn ngũ phòng quy Phật Nguyễn Thị hiệu Hòa thê nhân.

Hiển linh quy Phật Nguyễn Thị hiệu Từ Thanh chi vị.

Hiển linh quy Phật Nguyễn Phủ Quân tự Phúc Trung chi vị.

Tam giới thiên chúa tử phủ vạn linh công đồng thánh đế.

Dịch nghĩa:

Hiển linh bà Nguyễn Thị hiệu Hòa Thê người chi thứ năm Họ Thái Phan Phạm quy y Phật.

Hiển linh bà Nguyễn Thị hiệu Từ Thanh quy Phật.

Hiển linh Nguyễn Phủ Quân tự Phúc Trung quy y Phật.

Ba cõi thiên chúa bốn phủ vạn linh công đồng thánh đế.

  • Tranh gỗ khắc chữ “Thần” bằng chữ Hán trong nhà mẫu

Phiên âm:

Thần

Dịch nghĩa:

Thần linh

Trang gỗ có chữ Phật trong nhà mẫu:

Phiên âm:

Phật

Dịch nghĩa:

Phật chỉ người tu đã giác ngộ giải thoát.

  • Khánh Đồng trong nhà mẫu

Phiên âm:

Linh tắc thành tâm đại ngộ đại giác

Phật nhật trường minh

Dịch nghĩa:

Tâm linh chân thành đại ngộ đại giác.

Phật pháp trường miinh.

  • Đại tự trong nhà mẫu

Phiên âm:

Chúng nhân chi mẫu

Dịch nghĩa:

Mẹ của muôn dân.

Chữ hán

Phiên âm:

Mẫu nghi chương

Dịch nghĩa:

Oai nghi rực rỡ của mẫu.

Chữ Hán

同尊

興山

Phiên âm:

Hợp kính đồng tôn

Hưng Sơn Thiền tự

Tuế thứ Giáp Thân niên mạnh đông cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Hợp kính đồng tôn.

Chùa Hưng Sơn

Ngày tốt mùa đông năm Giáp Thân tạo đại tự.

Đại tự

興山

Phiên âm:

Minh đức duy hinh

Hưng Sơn Thiền tự

Tuế thứ Giáp Thân niên mạnh đông cát nhật tạo.

Dịch nghĩa:

Đức sáng hương thơm

Chùa Hưng Sơn

Ngày tốt mùa đông năm Giáp Thân (2004) tạo đại tự.

2.4. Hoành phi, câu đối Lầu Quán Âm

樓 觀 音

觀 看 慧 月 澄 圓 寶 海 涌 金 花

仰 架慈 航 拔 濟 沈 淪 登 覺 岸

Phiên âm:

Lâu Quan Âm

Quan khán tuệ nguyệt trừng viên bảo hải dũng kim hoa

Ngưỡng giá từ hàng cứu tế trầm luân đăng bỉ ngạn

Dịch nghĩa:

Lầu Quán Âm

Nhờ mắt tuệ thanh trong biển báu hoa sen đua nở

Ngưỡng thuyền từ độ chúng sinh chìm đắm lên bờ giác.

3.Một số ý nghĩa của chùa Hưng Sơn đối với văn học Phật giáo Việt Nam.

Ngoài việc tu tập, hoằng pháp, phục vụ tín ngưỡng, Đại đức Thích Quảng Hợp còn cùng với các Phật tử thiết lập Hội từ thiện chùa Hưng Sơn, phát tâm trao quà thiện nguyện hàng tháng cho các bệnh nhân tại Khoa Ung Bướu – Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay,  Đại đức đang tiếp nhận 2 vị phát tâm tu ở chùa đó là: Phật tử Trần Văn Quân tự Phúc Quang và Phật tử Nguyễn Hoàng Anh đều quê ở Hải Phòng. Tất cả đều muốn gieo duyên tập tu, đủ duyên thì xuất gia hầu Phật, hầu Tổ cũng như phục vụ tín ngưỡng.

Chùa Hưng Sơn hằng năm lễ: Lễ cầu an khai đàn Dược Sư từ: 02 – 08/01 AL,  thượng nguyên ngày 15 tháng Giêng, Phật đản ngày mùng 8/4 AL, Vu Lan Báo Hiếu rằm tháng 7 AL, Quy Y vào ngày 24, Giỗ Tổ ngày 25/09 AL, lễ tất niên ngày 15/12 AL. Giảng pháp vào những ngày 15 và mùng 1 hàng tháng trong năm. Khóa lễ được áp dụng như một thiền gia quy củ.

Có thể nói, qua bài viết này tác giả đã phác học lên lịch sử Chùa Hưng Sơn làng Diềm cổ có từ rất lâu đời, do thời gian và chiến tranh chùa xuống cấp trùng tu nhiều lần, phần nào do lịch sử không được ghi chép đầy đủ, tư liệu về chùa Hưng Sơn rất khan hiếm, chỉ qua lợi các cụ kể, và trên hai bia đá và bản dịch của chuông cổ của Chùa Hưng Sơn cho biết chùa được xây dựng ít nhất cách đây cũng khoảng 374 năm, còn căn cứ vào Tư liệu Làng Diềm sự tích và truyền thống thì Chùa Hưng Sơn có từ thời Hùng Vương đời thứ 3, cách đây khoảng 3 ngàn năm lịch sử. Như vậy, Chùa Hưng Sơn văn hóa Phật giáo nói chung và nói riêng rất là phong phú và đa dạng, cần phải nghiên cứu nhiều hơn nữa. Để cho cảnh chùa Hưng Sơn ngày một trang nghiêm tố hảo, tre già măng mọc, mạng mạch Phật pháp, văn học Phật giáo Việt Nam ngày một tỏ rạng, dài lâu, chúng ta lại ngẫm kệ Minh xưa, ghi lại trên bia đá chùa Hưng Sơn rằng:

“Phạm vũ Hưng Sơn thế chênh vênh

Phong cảnh trang nghiêm muôn việc thành

Khai sáng trùng tu công còn đó

Bia đá lưu truyền khắp tính danh”.

Đọc, ngẫm những câu kệ trên, nhà chùa mong các tín chủ, thí chủ gần xa, chúng ta lại khắc cốt lời Phật ý Tổ xưa, tinh tiến nhiều hơn nữa, để học, để hành bằng việc tu, nhằm góp phần hoằng pháp lợi sinh, tri ân Phật – Pháp – Tăng, tri ân tất cả người có công trong muôn một. Như Phật hoàng Trần Nhân Tông từng giảng: “một lần nhắc lại một lần mới”. Để cho văn học Phật giáo Việt Nam tươi mới, giáo pháp của Như Lai tham gia tích cực vào giáo dục, từ thiện xã hội, xây dựng đạo pháp và dân tộc Việt Nam ổn định phát triển bền vững.

Nam mô A Di Đà Phật!

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Bia ghi về việc tu sửa chùa Hưng Sơn, người dịch: Nguyễn Thị Dương, Lê Văn Sơn, Viện nghiên cứu Hán Nôm, 24/5/2009
  2. Bia chùa Hưng Sơn, người dịch: Nguyễn Thị Dương, Lê Văn Sơn, Viện nghiên cứu Hán Nôm, 24/5/2009.
  3. Bản dịch chuông chùa Hưng Sơn, Tiến sĩ Đinh Khắc Thuân dịch
  4. Nguyễn Quang Khải (2019), Chùa Dâu, Cổ Châu, Pháp Vân, Diên Ứng Tự, NXB Tôn giáo
  5. Giấy mời dự lễ hội Làng Diềm – Đền Thờ Vua Bà Thủy Tổ Quan họ Bắc Ninh ngày 6/2/Quý Mão – 2023
  6. Tài liệu Hội nghị viết sách chùa Phổ Chiếu năm 2022.
  7. Kỷ Yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Vương triều Mạc trong tiến trình lịch sử Việt Nam, do UBND TP Hải Phòng và Hội khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức 8-9/12/2023 tại Hải Phòng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chùa làng Diềm – Thành phố Bắc Ninh

Thượng tọa Tiến sĩ Thích Thanh Phương

 Chùa Sủi – Gia Lâm, TP Hà Nội

Nói đến Bắc Ninh chúng ta nghĩ ngay đến hai từ “Kinh Bắc” vì đây là tên gọi một vùng đất có nền văn hiến lâu đời, cũng là nơi khai mở nền văn minh Đại Việt. Kinh Bắc xưa là vùng đất bên bờ Bắc sông Hồng, đối diện Kinh đô Thăng Long, ranh giới địa lý bao gồm: 3 huyện của Hà Nội là: Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm; 2 huyện của Hưng Yên là: Văn Giang, Văn Lâm, phần Nam Bắc Giang và toàn bộ đất đai tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Đất Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay) còn là cái nôi của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ Phật giáo du nhập.

Thầy Tiến – Thầy Hợp  cùng Lãnh đạo phường Hòa Long chụp hình kỷ niệm tại nhà Tổ Chùa Hưng Sơn, 2023

Chùa Làng Diềm[9] được đặt theo tên Nôm của làng Viêm Xá. Nơi đây là vùng đất cổ nằm ven hữu ngạn sông Cầu thuộc phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Xưa kia, làng Diềm thuộc tỉnh Châm Khê, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Phường Hòa Long nằm trong vùng đồng bằng của Tỉnh Bắc Ninh, phía Tây Nam giáp phường Vạn An, từ Tây Bắc đến Đông Nam giáp vòng cung một đoạn đê sông Cầu, phía nam giáp thành phố Bắc Ninh. Hòa Long là một vùng quê tươi đẹp và bình dị, có những mái đình, những

ngôi đền, chùa cổ kính, có đình Diềm là di lích lịch sử Quốc gia, có đền, chùa, đình Quả Cảm được nhà nước xếp hạng cụm di tích lịch sử. Từ thủ đô Hà Nội, theo quốc lộ 1A về thành phố Bắc Ninh qua đường Vệ An rồi theo đường cái quan về làng Diềm khoảng 4 km.

Chùa Diềm còn có tên chữ là Hưng Sơn tự, tọa lạc ở vị trí đắc địa ngay đầu làng Viêm Xá, nhìn thẳng ra đường cái quan. Theo truyền thuyết về Đức Thánh Tam Giang, chùa Diềm có thể đã được khởi dựng và tồn tại từ thế kỷ thứ VI. Nhưng tài liệu có tính xác thực về quá trình tồn tại của chùa được lưu lại qua minh văn trên quả chuông đúc năm Phúc Thái thứ 7 (1649). Ngoài ra trong chùa Diềm còn lưu giữ được 2 tấm bia đá được làm năm Chính Hòa thứ 4 (1683) và năm Cảnh Hưng 38 (1777) ghi dấu quá trình tôn tạo và trùng tu chùa. Với những bằng chứng xác thực trên, có thể khẳng định sự hiện diện của chùa Diềm có trước năm 1649.

Theo kiến trúc truyền thống trong việc xây dựng của người Việt Nam thì cảnh quan, cây cỏ và hướng là những yếu tố quan trọng, chúng phản ánh quan niệm, sắc thái văn hóa của dân tộc. Trong sách Tam tổ thực lục danh sư Pháp Loa (1284-1330) Ngài đã tổng kết: “Khi đã ngộ liễu chính tông rồi thì chọn cảnh chùa mà trụ trì, tránh những nơi nước độc non thiêng. Cảnh có 4 điều: một là nước, hai là lửa, ba là lương thực, bốn là rau. Đây là một điều cần, lại cũng không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian vì gần thì ồn ào mà xa thì không ai giúp đỡ cho”…

Xét về vị trí thì chùa Diềm đáp ứng yếu tố như trong sách Tam Tổ thực lục danh sư Pháp Loa chỉ dạy và cũng phù hợp với kiến trúc truyền thống của người Việt. Cho nên chùa Diềm không ở gần dân mà cũng không xa dân, bên trái có hồ nước rộng, bên phải có núi Quả Cảm, Kim Sơn quay đầu về chầu, phía trước có núi Dạ cao chót vót làm minh đường. Chùa Diềm quay về hướng Đông Nam. Hướng Đông là hướng của các thần, là hướng mang sinh lực vũ trụ đến cho con người, Phật ở phương Tây nhìn về phương Đông để cứu chúng sinh. Hướng Nam là hướng đầy dương tính, sáng sủa mát mẻ tránh được giá rét, đồng thời đó là hướng của các bậc đế vương “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ” – Thánh nhân quay mặt về phía Nam mà nghe lời tâu bày của thiên hạ. Cảnh Đức và Bồ Tát quay về hướng Nam để nghe lời kêu cứu của chúng sinh trong kiếp đời tục lụy, dùng pháp lực vô biên vô lượng mà cứu vớt. Hướng Nam còn là hướng bát nhã tức là trí tuệ, có trí tuệ thì mới diệt trừ được u tối, bởi u tối là mọi mầm mống của tội ác.

Chùa Diềm còn có nhiều tượng có niên đại khá sớm, khoảng thế kỷ XVII-XVIII với kỹ thuật tạo tác tinh xảo, giá trị nghệ thuật cao, gây ấn tượng mạnh mẽ, mỗi bức tượng là một tác phẩm điêu khắc tuyệt vời, cho nên có bài thơ viết rằng:

Hưng Sơn chùa soi

Trần thuộc nam phương

Phong cảnh hoàn hảo

Chế độ kỷ cương

Phật thần hiển ứng

Phù hộ quê hương

Trước sông sau núi

Trong ngoài trang nghiêm

Chùa Diềm là một di tích Phật giáo thể hiện rất rõ về tư tưởng của đạo Phật là từ bi, hỷ xả. Như Hoà thượng Thích  Đức Mãn Giác đã viết bài thơ nhớ chùa với 2 câu kết của bài thơ muốn nói lên nỗi lòng sâu thẳm của người dân Việt Nam: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”. Cho nên ngôi chùa không chỉ là nơi gửi gắm phần nội tâm mà chính là môi trường rèn rũa, giáo dục giúp con người bỏ ác làm lành, hiểu rõ được nhân quả luân hồi, để diệt trừ phiền muộn tà tâm, hướng tới những điều thiện lành để thoát khỏi sự khổ đau trong cuộc sống hiện tại.

Sự bao dung của Đức Phật đã gắn bó mật thiết ngôi chùa với cuộc sống tinh thần của nhân dân địa phương. Ngôi chùa là nơi bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ kế tiếp nhau của cộng đồng dân cư làng Diềm. Sự tồn tại của chùa Diềm còn góp phần khơi dậy lòng tự hào, yêu quê hương đất nước. Chính do vị trí và tác dụng to lớn của ngôi chùa đã làm lắng đọng trong lòng người, hòa vào cuộc sống thế tục của làng xã nên trong suốt hàng trăm năm tồn tại, chùa Diềm luôn được nhân dân địa phương trân trọng gìn giữ. Điều đó được thể hiện qua văn bia Cảnh Hưng thứ 38 (1777) hiện đang được lưu giữ trong chùa: “Phong cảnh trang nghiêm tràn đầy lẽ kỳ diệu, xóm làng yên tĩnh, cảnh đẹp có phúc điền thường trú ở thế gian giữ mạch đồng ruộng để yên dân”.

Thầy Tiến đệ tử Thầy Phương chùa Kim Sơn chúc mừng Phật đản Chùa Hưng Sơn 2023, Ảnh: Phật Tử

 

Mỗi khi đi xa, người Việt Nam đều nhớ về quê hương. Trong tâm thức họ là những hình ảnh mái chùa, ngọn tháp, tiếng chuông, những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và không thể thiếu được trong cuộc sống tâm linh của người dân. Chùa Diềm là một bằng chứng vật chất phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là một biểu hiện cụ thể nhất về bản sắc văn hóa Việt Nam. Hiện nay trong xu thế phát triển của xã hội đòi hỏi phải có sự giao lưu văn hoá với các nước trên thế giới. Cho nên việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức cần thiết, bởi vì từ các di tích lịch sử văn hóa ta sẽ tìm được sự đặc trưng về bản sắc văn hóa dân tộc một cách rõ nét nhất.

Ngày 12/3/2021 cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã viết rằng việc phát huy thế mạnh du lịch tâm linh gắn liền với làng nghề được đánh giá là loại hình du lịch đầy tiềm năng. Bắc Ninh có lợi thế về hệ thống đền chùa, thắng cảnh đa dạng và phong phú, thỏa mãn nhu cầu của du khách thập phương với môi trường tự nhiên, xã hội, hướng về cội nguồn, hưởng thụ sinh hoạt văn hóa truyền thống… Hành trình du lịch có thể là cuộc hành hương đến đền chùa, thăm các cơ sở tôn giáo, các tuyến đường lịch sử văn hóa liên quan đến các di sản hữu hình và vô hình như lễ hội, âm nhạc, sân khấu, ẩm thực; hơn nữa, nghỉ tại nhà dân và tiêu dùng các sản phẩm du lịch được tạo ra bởi sự sáng tạo của con người địa phương sẽ đem lại những cảm nhận riêng cho du khách về một miền quê văn hiến.

Làng Diềm có truyền thuyết về Đức Vua Bà bị cơn phong vũ cuốn lên trời rồi giáng xuống làng Diềm cùng với 20 người điền phu. Bà đã ở lại nơi núi gọi là Kim Sơn để giúp đỡ mọi người khai khẩn ruộng bãi trồng cấy, lập gia đình, làng xóm, xây dựng thuần phong mỹ tục, đó là làng Diềm thuở ban đầu. Để mọi người an cư và có nghề sống lâu dài, Đức Vua Bà đã dạy dân cấy lúa trồng màu nơi bờ bãi, trồng mía để kéo mật, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ để dệt vải.

Chính vì thế mà mật làng Diềm ngon nổi tiếng và nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo kén, ươm tơ là nghề cổ truyền của dân làng vẫn tồn tại và phát triển đến tận ngày nay:

Dù ai buôn bán trăm nghề

Không bằng Viêm Xá có nghề tằm tang

Dù ai buôn đẩu, bán đâu

Cũng không quên được gốc sâu làng Diềm

Làng Diềm còn có huyền thoại về Nhữ Nương, thủy tổ của làn điệu dân ca quan họ đặc sắc của xứ Kinh Bắc. Truyện kể rằng: Ngày xưa thời vua Lê – chúa Trịnh ở làng Diềm có một người con gái xinh đẹp, hàng ngày phải đi cắt cỏ. Tuy là con nhà nghèo khó lam lũ nhưng nàng có trí thông minh khác người và đặc biệt có giọng hát mượt mà, sâu lắng. Mỗi khi nàng cất tiếng hát thì cảnh vật im phăng phắc, chim cũng ngẩn ngơ, cá cũng lờ đờ lắng nghe. Một hôm chúa Trịnh đi dọc sông Nguyệt Đức (sông Cầu), đang say đắm với cảnh nương dâu xanh mướt bên bờ, chợt nghe thấy tiếng hát mượt mà từ cánh đồng vọng đến:

Tay cầm bán nguyệt xênh xang

Bao nhiêu cây cỏ lai hàng tay ta

Nhìn ra mới biết là một cô gái có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành đang cầm liềm cắt cỏ, chúa Trịnh ngạc nhiên lắm, bởi cái liềm mà ví như nửa mặt trăng thì thật là tài tình, lý thú, lại để ý thấy cô gái đi đến đâu có mây vàng che chở đến đấy. Chúa mang lòng yêu mến, mới cho vời cô về kinh lấy làm vợ. Ở kinh đô chẳng bao lâu, chán cảnh đô thị phù phiếm, chạnh lòng nhớ tới làng nhỏ nơi thôn dã nên bà xin được về sống ở làng Diềm. Tại đây, bà đã tụ tập trai thanh, gái lịch để dạy họ hát. Những bài hát do bà nghĩ ra thật là khó, lại thêm lối hát đôi, hát đối nên phải tụ tập từng “bọn” để dạy hát. Sau khi bà mất, dân làng lập đền thờ làm thủy tổ làn điệu dân ca quan họ nổi tiếng xứ Kinh Bắc:

Thủy tổ quan họ làng ta

Những lời ca xướng vua bà sinh ra

Xưa nay nam nữ trẻ già

Ai mà ca được ắt là hiển vinh

Làng Diềm không chỉ là nơi hội tụ được đầy đủ những yếu tố về nền văn hoá truyền thống của vùng đất Kinh Bắc mà còn có ngôi chùa Diềm linh thiêng và cảm ứng được lưu giữ cho muôn đời mang lại sự bình an không chỉ cho nhân dân làng Diềm mà du khách thập phương đến nơi đây cũng sẽ có được sự bình an này.

Nhìn vào vị trí địa lý đất Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay) được bồi đắp từ 4 con sông. Đặc biệt là bốn con sông cùng mang chữ “Đức”: Thiên Đức-sông Đuống, Nguyệt Đức-sông Cầu, Nhật Đức-sông Thương, Minh Đức-sông Lục Nam.

Sách Đồng khánh dư địa chí ghi chép: Bắc Ninh thuộc bộ Vũ Ninh của quốc gia Văn Lang – Âu Lạc dưới triều Hùng Vương – An Dương Vương. Thời Bắc thuộc là đất huyện Luy Lâu – Long Biên của quận Giao Chỉ, sau là Giao Châu. Thời Lý-Trần là Bắc Giang đạo. Thời Lê là Kinh Bắc đạo, sau đổi là trấn rồi xứ Kinh Bắc. Thời Nguyễn, đầu đời Gia Long vẫn gọi trấn Kinh Bắc gồm 4 phủ và 20 huyện. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi gọi là trấn Bắc Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) chia đặt tỉnh hạt, đổi gọi là tỉnh Bắc Ninh.

Những giá trị tinh thần, tư tưởng của vùng đất này được phản ánh qua các huyền thoại về ông Đùng, bà Đùng, về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, về Thánh Gióng, Mỵ Châu – Trọng Thủy, về thành Cổ Loa, An Dương Vương, Cao Lỗ Vương… Cùng với đó là đậm đặc các di tích phong phú, đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ địa phương nào trên đất nước ta, vẫn đang được bảo lưu trong lòng đất, lòng người Kinh Bắc. Nổi bật như lăng Kinh Dương Vương, đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ, đền Phù Đổng Thiên Vương, thành Cổ Loa, thành cổ Luy Lâu…

Căn cứ theo các di tích lịch sử đình chùa xưa và sử liệu để lại đời Hậu Hán, sách Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, Đại Tạng Kinh… cho ta thấy Phật giáo Việt Nam được du nhập từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch và hình thành từ thế kỷ thứ I, đầu kỷ nguyên Tây lịch. Phật giáo được truyền thẳng từ Ấn Độ sang Giao Chỉ. Lúc này, ngoài hai trung tâm Phật giáo Lạc Dương, Bành Thành ở Trung Hoa, cũng đã hình thành trung tâm Phật giáo Liên Lâu (Luy Lâu) tại Giao Chỉ “một chiếc nôi của Phật giáo”. Cho đến nay, trung tâm Phật giáo Luy Lâu vẫn là đề tài nóng khá lôi cuốn đối với người tìm hiểu Phật giáo Việt Nam.

Vùng đất mang danh Kinh Bắc – Bắc Ninh này không chỉ có vị thế hết sức đặc biệt trong lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển nền văn hóa dân tộc. Mà còn  là cái nôi của Phật giáo khi bắt đầu du nhập vào Việt Nam mà chúng ta cần phải lưu giữ và bảo tồn cho muôn đời sau./.

 

 

 

 

 

 

Chùa Diềm (Hưng Sơn Tự)

Nơi duyên lành ghi dấu ấn Thầy tôi

Tỷ khiêu ni Thích Đàm Định

Trụ trì chùa Vua, Hà Nội

Được Tỷ khiêu, Tiến sỹ Thích Quảng Hợp mời dự hội thảo viết sách về Lịch sử  chùa Diềm (Hưng Sơn tự), tôi nhất tâm tùy hỷ tán thán công đức của một vị tăng trẻ sớm phát tâm, hết lòng làm cuốn sách đầy ý nghĩa nhân văn này để các thế hệ tương lai biết về cội nguồn của ngôi chùa, của chư vị lịch đại Tổ sư tiền khai sáng, hậu khai sáng già lam. Qua đó, còn góp phần tri ân, báo hiếu công đức Tứ ân, nhất là các Phật tử và cán bộ nhân dân làng Diềm đã nối đời công quả, góp phần hương lửa, tôn tạo, giữ gìn, giúp cho ngôi cổ tự lừng danh này mãi mãi trường tồn, để đạo Phật ngày càng được hưng long, cho chúng sinh an lạc.

Kinh Bắc, chốn địa linh sinh nhân kiệt

Phật giáo được truyền vào nước ta khá sớm, từ những năm đầu thế kỷ I (Tây lịch), thông qua các tăng sỹ người Ấn Độ đi cùng thương gia vào nước ta truyền đạo, lập chùa, dịch kinh. Trong đó, có danh tăng đã để lại tên tuổi, công trạng cho hậu thế như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương,…

Phương tiện như cơ trời hội nhập, đạo Phật được cư dân Việt đón nhận nồng nhiệt, mà vùng Kinh Bắc hội đủ phúc duyên, sớm được lĩnh hội, đón nhận đầu tiên. Cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng dân gian Việt cổ thông qua nhà sư Khâu Đà La và Mẫu Man Nương để tạo thành Phật Mẫu Man Nương và hệ thống các chùa thờ Tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) trong vùng như chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Dàn, chùa Tướng,… tạo thành trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta ngay ở trung tâm Dâu – Luy Lâu, nơi quận trị Giao Châu của nhà Hán, do Sỹ Nhiếp làm Thái thú (187-226).

Theo thư tịch cổ và truyền tích “Cổ Châu Phật bản hạnh”, chùa Tổ (Phúc Nghiêm tự) thuộc thôn Mãn Xá (Làng Mèn), tổng Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (nay là thôn Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) thì chùa được xây trên nền nhà cũ của ông bà Tu Định – thân phụ và Ưu di – thân mẫu của Man Nương. Ngài Khâu Đà La và Mẫu Man Nương đã tạo ra Sơn môn Dâu cùng hệ thống Tứ pháp.

Trung tâm Luy Lâu khi ấy nhờ được hội đủ thắng duyên nên sớm trở thành một trung tâm Phật giáo lớn. Pháp sư Đàm Thiên đã từng tâu với vua Tùy Văn Đế: “Xứ Giao Châu có đường thông trực tiếp với Thiên Trúc. Khi Phật giáo mới đến Giang Đông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu  của Giao Châu đã có tới 20 bảo tháp, độ được 500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi”. Đây cũng là tiền đề ra đời thiền phái đầu tiên ở nước ta (Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi năm 580). Luy Lâu trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, tôn giáo tín ngưỡng bản địa hòa với Phật giáo thành hệ thống Phật Tứ pháp vùng Dâu, vừa là “Thần”, vừa là “Phật” để rồi giáo pháp của Đức Phật từ đây lan tỏa đi các nơi.

NS Thích Đàm Định phát biểu viết sách Chùa Hưng Sơn 2022. Ảnh: Phật tử

Bắc Ninh không chỉ là “cái nôi” của Đạo Phật ở nước ta, mà còn góp phần tạo thắng duyên cho sự ra đời và lên ngôi của vua Lý Thái Tổ – một bậc minh quân thánh đế, người đã ban Chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội); lập ra triều Lý thái bình, thịnh trị kéo dài hơn 200 năm, tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển rộng khắp đất nước, trở thành quốc đạo,…

Chùa Hưng Sơn và phúc đức của Thầy tôi

Thầy tôi là cố Ni trưởng Thích Đàm Nhuận, thế danh Trần Thị Hải (1924-2017), sinh ra trong gia đình có truyền thống kính tín đạo Phật, ở làng Duyên Lãng, xã Trực Thanh, huyện Trực Ninh, Nam Định. Người có ba chị gái đều là đồng tử xuất gia, đều là Ni trưởng trụ trì những ngôi cổ tự. Vốn có túc phúc, duyên lành từ nhiều đời, năm lên chín tuổi, Thầy đã noi gương các chị xuất gia tu học để góp phần hoằng dương Phật pháp, lợi lạc quần sinh. Trải qua ba cuộc chiến tranh (chống Pháp, Nhật, Mỹ), dù gặp bao khó khăn, gian nan thử thách, Thầy vẫn kiên trì tu tập, theo học những bậc thạch trụ thiền gia đạo cao đức trọng, như: Tổ Trí Hải, Tổ Tố Liên, Tổ Tuệ Tạng, Đệ nhất Pháp chủ,… được Tổ Tuệ Tạng ban cho đạo hiệu Hiền Nữ. Ngay sau khi tốt nghiệp Trường Ni học Bắc Việt, Thầy đã được Ban hộ tự và nhân dân Phật tử thỉnh về trụ trì chùa Chân Tiên (Phúc Lâm tự) ở 151 phố Bà Triệu, Hà Nội. Đây là ngôi chùa có nguồn gốc từ ngôi quốc tự Sùng Khánh Báo Thiên, do vua Lý Thánh Tông xây dựng năm 1056 – 1057, bên hồ Hoàn Kiếm (khu vực Nhà thờ Lớn hiện nay), từng gặp pháp nạn khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội.

Nhờ công đức tu hành và hưng long Phật sự, từ năm 1992, Thầy được nhân dân Phật tử phường Phố Huế và Ban Trị sự Phật giáo Quận Hai Bà Trưng mời và cử về kiêm nhiệm trụ trì, di dân, phục hồi ngôi cổ tự Chùa Vua (Hưng Khánh tự) ở 33 phố Thịnh Yên, phường Phố Huế, Hà Nội, bị tàn phá trong chiến tranh chống Pháp.

Đạo hạnh của Thầy như hương lành ngược gió tung bay, năm… Thầy lại vinh dự được cán bộ và nhân dân Phật tử làng Diềm, xã Hòa Long, huyện Yên Phong (nay là phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh), tỉnh Bắc Ninh tín nhiệm mời về kiêm trụ trì ngôi cổ tự Hưng Sơn. Vì mạng mạch của Phật pháp, vì ngôi Tam Bảo thường trụ ở đời và tình cảm của dân làng, mặc dù tuổi đã cao, Người vẫn phát vô ngại tâm, bất từ lao quyện, hoan hỷ nhận lời, rồi trực tiếp sang tận chùa Hưng Sơn cùng cán bộ chính quyền và nhân dân Phật tử xem những việc gì cần làm, việc gì cần ưu tiên làm trước.

Đạo hạnh song toàn, có nhiều kinh nghiệm Phật sự, theo lời người xưa “Thầy già, con hát trẻ”, Thầy cắt cử Pháp tôn là Sư thầy Thích Diệu Thủy sang trực tiếp đèn nhang phục vụ tín ngưỡng, cùng chính quyền và nhân dân tôn tạo chùa cảnh. Lòng thành kính của dân làng, nhất là các cụ hai giới đã thấu tỏ đến Thiên Long Bát Bộ, Hộ pháp Long thần, Thầy đã nhận lời  và giáo hóa được ông Nguyễn Tiến Vượng là Phật tử chùa Chân Tiên, ở 108 phố Bà Triệu, nhà có cửa hàng Mỹ nghệ Thăng Long truyền thống (Quảng Hưng Long), từng hộ trì Tam Bảo ở rất nhiều nơi cùng hằng tâm hằng sản. Ngoài ra, ông Vượng còn vận động thân quyến, bà con Phật tử thập phương xa gần công đức, kết hợp với sự đóng góp công của của nhân dân làng Diềm. Được sự giúp đỡ của chính quyền và nhân dân địa phương, năm đầu tiên (…) nhà chùa đã khởi công làm nhà thờ Mẫu và các công trình phụ trợ. Hai năm sau bắt đầu xây dựng, tôn tạo Chính điện chùa Hưng Sơn. Sư cụ họp thống nhất với chính quyền và nhân dân, phần kỹ thuật thiết kế thi công, vật liệu xây dựng như cột đá, rồng đá, đồ thờ, nội thất, lắp đặt, vận chuyển đều giao cho ông Nguyễn Tiến Vượng đảm trách; thiếu tiền thì ông tạm ứng. Vận chuyển chỉ được đi ban đêm. Tuổi cao sức yếu, ít trực tiếp sang làm việc Phật được, Cụ luôn canh cánh trăn trở trong lòng, chỉ đạo từ xa.

Thầy Diệu Thủy đã thuận mệnh ý của Cụ, cùng ông Tiến Vượng, chính quyền và nhân dân địa phương dốc lòng lo Phật sự. Sau mấy năm trời phải lao tâm khổ tứ, vượt qua bao gian nan thử thách, việc làm chùa, tô tượng, đúc chuông khánh đều được thành tựu viên mãn, tạo được phúc điền. Nhân dân địa phương thêm tự hào, hoan hỷ nương tựa vào ngôi Tam Bảo, đi theo bát chính đạo, xa lìa khổ não, đạt được giác ngộ, giải thoát. Đó là nguyện vọng Cụ tôi hằng mong ước.

Cho tới nay, nhiều Phật tử thường ôn lại quá khứ, nhất trí rằng, Sư Thầy Diệu Thủy dù trụ trì ở đây không dài (được gần 10 năm) nhưng nhờ có đạo hạnh tốt, biết vâng theo lời chỉ giáo của Sư cụ, được sự hộ trì của Tam Bảo, được chính quyền, nhân dân Phật tử tin cậy đã can đảm vượt qua mọi thử thách, làm được khá nhiều Phật sự, để lại tình cảm tin yêu cho dân làng và các thế hệ mai sau. Phật tử và nhân dân địa phương luôn nhớ tới công đức của Thầy.

Tưởng nhớ tri ân công đức của Sư cụ giúp đỡ dân làng, ngày mùng Mười tháng Ba năm Đinh Dậu (2017), hay  tin Cụ về hầu Đức Phật, Đại đức Thích Quảng Hợp cùng chính quyền, nhân dân Phật tử địa phương đã sắp xếp công việc, vân tập về chùa Chân Tiên chịu tang, phúng viếng và tiễn đưa giác linh Cụ thật thắm tình đạo vị, mang đậm phong cách lịch lãm ân tình của người dân quan họ Kinh Bắc luôn “uống nước nhớ nguồn”.

Vào những dịp chùa Chân Tiên và chùa Vua có lễ hội hay công to việc lớn, dân làng Diềm đều có đại diện đem lời ca tiếng hát quan họ sang phục vụ góp vui hay cùng chia sẻ.

Đại diện cho môn đồ pháp phái, chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý liệt vị cùng cán bộ, nhân dân làng Diềm.

Tỷ khưu Thích Quảng Hợp, vị tăng trẻ hết lòng vì đạo mạch

Hạ sinh trên quê hương Chính Mỹ, Thủy Nguyên, Hải Phòng có nhiều ngôi cổ tự và chư tăng đạo hạnh, ngay từ khi còn niên thiếu Thầy (thế danh là Trần Văn Thành, sinh năm 1980) đã ấp ủ hoài bão và tha thiết nhờ mẹ xin Trưởng tử của Sư cụ Chân Tiên cho được theo lên Hà Nội xuất gia tu đạo bồ đề. Thấy Thầy còn quá nhỏ, sợ chưa đủ dũng lực tinh tấn tu hành, vị Trưởng tử chỉ động viên, khuyến tiến và trợ duyên ít tiền để Thầy mua sách vở học tập. Nhân dịp trong họ có việc hiếu, Thầy lân la làm quen, mạnh dạn đệ trình xin được xuất gia. Thế là cơ duyên hội đủ, Thầy được theo hầu làm đệ tử của Hòa thượng Thích Nguyên Hạnh, trụ trì chùa Tảo Sách, quận Tây Hồ, được Hòa thượng cho theo hầu Đức Đệ nhị Pháp chủ Thích Tâm Tịch, trụ trì chùa Quán Sứ,….

Tòng nhân duyên nhi sinh, chư Phật định ngôi, nhất sinh bổ xứ. Đáp ứng lòng khao khát ngôi Tam Bảo của nhân dân Phật tử làng Diềm, Đại đức Thích Quảng Hợp lại là môn đồ pháp phái của Sư cụ Chân Tiên – nghiệp sư, tôn sư của chúng tôi. Khi còn sơ cơ mới vào chùa, Thầy cũng được Sư cụ quý mến, rất quan tâm hướng đạo.Cụ luôn sách tấn khuyên bảo Thầy cố gắng chịu khó tu hành để sau này trở thành sứ giả pháp khí của Như Lai, ngõ hầu báo đáp Tứ trọng ân.

Duyên lành hội tụ, sau quá trình kiên trì chuyên chú tu tập, tới nay Thầy đã trưởng thành, lại có duyên với chùa Hưng Sơn, với nhân dân Phật tử làng Diềm, tiếp tục kế đăng trụ trì chùa Hưng Sơn. Được sự nhất tâm đồng lòng ủng hộ Phật pháp của chính quyền địa phương cùng nhân dân Phật tử hai giới, Đại đức Thích Quảng Hợp lại noi gương chư Tổ, dốc tâm sức vượt mọi khó khăn hành Phật sự. Nhờ đó, cảnh tự Hưng Sơn không ngừng được tôn tạo, từ Tổ đường, lầu Đức Quan Âm, nhà khách, nhà phụ trợ, nhà giảng, tường rào, sân vườn… Các hạng mục công trình đều được quy hoạch và đầu tư bài bản, xây dựng khang trang tố hảo, nhân dân Phật tử đến chùa đều hoan hỷ. Ngắm cảnh chùa đẹp lại nhớ tới người xưa.

Việc hoằng dương Phật pháp lợi lạc quần sinh là nhiệm vụ của “Như Lai sứ giả”.Thời đại hội nhập phát triển, nhu cầu tâm linh ngày càng cần phải được mở rộng, nâng cao hơn. Thực hiện đạo pháp đồng hành cùng dân tộc, Thầy trụ trì chùa Hưng Sơn thường xuyên tổ chức khóa tu Ngày an lạc cho thanh, thiếu niên, thuyết giảng giáo lý Phật pháp, truyền thụ Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới để tưới tẩm mầm bồ đề cho nhân dân Phật tử, nhằm đưa chính pháp hòa nhập vào đời, hướng cho nhân dân Phật tử đi theo Bát chính đạo, góp phần giúp cho xã hội ngày càng được ổn định, phồn vinh.

Chùa Hưng Sơn tổ chức khóa tu “Một ngày an lạc” cho các Phật tử trẻ, 2023 . Ảnh Quy Niệm

Với tinh thần từ bi trí tuệ, tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, Thầy đã tổ chức vận động Phật tử đóng góp ủng hộ thượng cúng dàng các trường học, giúp chư tăng hành trì lễ niệm, hạ giúp đỡ những người nghèo vùng sâu, vùng xa, người bệnh hiểm nghèo, gia đình thương binh liệt sỹ, đồng bào bị thiên tai lũ lụt…

Ngoài vận động tín đồ Phật tử chấp hành tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, Thầy còn đem lòng bi mẫn của Như Lai đến với thế gian, quan tâm đến đời sống tu học của nhân dân, góp phần giáo dục ý thức cho tầng lớp trẻ hiểu đạo và có cư xử đúng mực trong đời sống, sinh hoạt hằng ngày.

Làm theo lời khuyên bảo, sách tấn của Sư cụ khi mới sơ cơ bước chân vào chùa, Tỷ khiêu đã kiên trì, cố gắng tu học. Hàng năm, vào dịp an cư kết hạ, Thầy được chư tăng Hà Nội mời vào Ban giảng sư tuyên dương chính pháp giúp chư Tăng và Phật tử hiểu thêm giáo lý Phật đà. Thầy còn thường xuyên tham gia các hội thảo khoa học ở cả các Ban của Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam và Ban Trị sự các tỉnh, thành phố, các trụ xứ tổ chức, đóng góp những bài viết tâm huyết giàu ý nghĩa, chung tay giúp cho hội thảo thành công viên mãn. Cuốn sách “Ni trưởng Thích Đàm Nhuận một đời chân tu” do chùa Vua đứng ra tổ chức được ra đời năm 2022 cũng có sự đóng góp rất nhiều của Tỷ khiêu, Tiến sỹ Thích Quảng Hợp, từ khâu tổ chức hội thảo, viết bài, làm thơ tri ân công đức của Cụ.

Nhìn thành tựu Phật sự chùa Hưng Sơn làng Diềm hiện nay, chắc chư vị lịch đại Tổ sư, tiền khai sáng già lam, hậu khai sáng già lam cùng giác linh cố Sư cụ Chân Tiên rất hoan hỷ, luôn dõi theo để phù hộ cho Thầy luôn Pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ, Phật sự viên thành, nhân dân Phật tử thân tâm thường an lạc, xứng danh là người dân làng quan họ gốc của dân ca quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, chốn địa linh sinh nhân kiệt.

Ngày 28/05/2023.

 

[1] Theo Đại hội Phật giáo Thế giới đã thống nhất

Theo Giấy Chứng Nhận quyền sử dụng đất[2] của Chùa Hưng Sơn do UBND tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 22/09/2006, chùa có diện tích sử dụng: 2730 m2; Còn lại diện tích ao Lầu Quán Thếm Âm là: 614 m2.

 

[3]Ông  Đoàn Văn Hòa sinh năm 1960 thôn Cao Thọ xã Vạn Ninh huyện Gia Bình làm phó cả thợ mộc dựng lại Ngôi nhà Tổ Chùa Hưng Sơn. Ông Nguyễn Văn Bảy – Giám đốc Công ty mùng 7/7 huyện Thuận Thành nhận phần nề và hoàn thiện nhà Tổ năm 2015

 

[4]  Ông Nguyễn Văn Lương, Nguyễn Văn Thọ ở Bắc Giang, bà Xuân  đồng thi công Lầu Quán Âm năm 2015

[5] Gia đình: ông Nguyễn Tiến Vượng – Hà Nội cúng xây nhà Mẫu, lát bậc đá nhà Tổ. Gia đình ông Ngô Văn Trung (Lưu) cúng đôi rồng đá nhà Tổ, tượng Bồ Tát Quán Âm. Gia đình ông Vũ Xuân Thành cúng tượng Bồ tát Quán Âm bằng gỗ mít trong Tam Bảo. Gia đình ông Hà Huy Hùng – Hà Nội cúng cây Sa La. Ông Nguyễn Văn Hùng (Thềm) làng Diềm cúng cây Bồ Đề. Ông Ngô Công Thiết chỉ tịch phường Hòa Long cúng cây Sa La. Ông Nguyễn Văn Hùng – Phó ban Tuyên giáo tỉnh Bắc Ninh cúng mấy chục cây cau trồng tại vườn…

[6] Qua đó ta thấy năm Kỷ Sửu = 1649 (năm, điểm xuất phát).Theo lịch thì cứ tiến lên hoặc lùi lại 60 năm thì năm Kỷ Sửu lại lặp lại 1 lần. Mặt khác, theo tài liệu bản rập dịch quả Chuông của Chùa Hưng Sơn được đúc năm 1649 đời Vua Lê Chân Tông do Học Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện trước năm 1945. Căn cứ vào chữ trên cột gỗ cũ Chùa Hưng Sơn và căn cứ vào bản dịch Chuông cổ Chùa Hưng Sơn thì ta có thể kết luận là: Chùa Hưng Sơn làng Diềm chí ít cũng phải xây vào năm 1649 (Kỷ Sửu) cách đây 374 năm hoặc có thể lâu hơn nữa.

 

[7] Chữ()niểu: mềm mại

[8] Câu đối tiền thân nói lên tiền thân cuộc đời của thánh mẫu Liễu Hạnh.

[9] Chùa Diềm còn gọi là chùa Hưng Sơn, Chùa Viêm Xá, hiệu là Hưng Sơn Thiền Tự

(Còn tiếp)

Ban biên tập pháp học. com

Bài viết khác