CHÙA HƯNG SƠN – DIỀM: PHẦN II. CÁC BÀI VIẾT CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC, NGHIÊN CỨU TRÍ THỨC (Phần 2)

Chùa Làng Diềm (Chùa Hưng Sơn)

trong lịch sử Phật giáo Luy Lâu và với cuộc sống hôm nay

PGS.TS. Hoàng Thị Thơ·

  1. Chùa Làng Diềm (chùa Hưng Sơn) trong lịch sử Phật giáo Luy Lâu

Làng Viêm Xá có tên nôm là làng Diềm, gắn với lịch sử Phật giáo Luy Lâu (Giao Chỉ) – một trung tâm Phật giáo sớm nhất ở khu vực Đông Bắc Á, trước cả trung tâm Bành Thành và Lạc Dương của Trung Hoa.

Chùa Hưng Sơn (còn gọi chùa Làng Diềm) có huyền sử từ thời vua Hùng Vương thứ ba, và có lịch sử (chính sử) ít nhất khoảng 374 năm. Làng Diềm thuộc tỉnh Châm Khê, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc[1]. Đây là một làng Phật giáo cổ nằm bên hữu ngạn sông Cầu, thuộc xã Hòa Long, huyện Tiên Phong tỉnh Bắc Ninh, cảnh sắc thanh bình với sông Cầu lượn quanh như dải lụa, và núi Quả Cảm núi Kim Sơn, núi Dạ soi mình xuống dòng sông tạo nên quang cảnh rất hữu tình. Ngày nay từ thủ đô Hà Nội, theo quốc lộ 1A đến thành phố Bắc Ninh, qua đường Vệ An rồi theo đường cái quan, thẳng về làng Diềm chỉ khoảng 40 km.

Ảnh: PGS. Tiến Sĩ Hoàng Thị Thơ phía phải ngoài cùng, hướng ngoài vào, đoàn cùng Đại đức Thích Quảng Hợp dâng hương lễ Phật tại chùa Hưng Sơn 

Với địa thế được thiên nhiên ưu đãi, làng Diềm nổi tiếng với dân cư đông đúc, đất đai màu mỡ, trên đồi dưới bãi, có bến sông nên thế rất đẹp, thuận lợi cho sự tụ cư, lập làng rất sớm và theo đó tích tụ nên phong hóa đẹp và đặc sắc của người Kinh Bắc. Huyền thoại lập làng Diềm thủa ban đầu là câu chuyện về Vua Bà được trời nổi gió mang đến và giáng xuống Viêm Trang cùng với 20 điền phu để giúp dân khai khẩn, dạy dân cách trồng cấy, kéo mật, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, gây dựng gia đình làng xóm, tạo thuần phong mỹ tục làng Diềm:

Dù ai buôn bán trăm nghề

Không bằng Viêm Xá có nghề tằm tang

Dù ai buôn đâu, bán đâu

Cũng không quên được gốc sâu làng Diềm

Làng Quan Họ cũng là tên gọi khác của Làng Diềm, vì làng có đặc sản văn hóa là hát Quan họ. Làng Diềm có huyền thoại rất đẹp về dân ca Quan họ đặc sắc. Đó là tích chuyện về nàng Nhữ Nương – tổ của làn điệu dân ca Quan họ nổi tiếng Kinh Bắc, rằng:

Khoảng thời chúa Trịnh, làng Diềm có một cô gái nhà nghèo chuyên cắt cỏ để kiếm sống. Tuy nghèo nhưng cô xinh đẹp và đặc biệt có giọng hát mượt mà, không những thế còn biệt tài đặt ra lời ca sâu lắng, ý nghĩa. Khi cắt cỏ ngoài đồng cô thường cất tiếng hát khiến cảnh vật im phăng phắc, chim cá cũng ngẩn ngơ lắng nghe! Một hôm chúa Trịnh đang trên sông Nguyệt Đức (nhánh của sông Cầu), chợt nghe tiếng hát mượt mà từ cánh đồng vọng đến và cũng ngẩn ngơ không kém trước lời ca trong sáng thanh cao:

Tay cầm bán nguyệt xênh xang

Bao nhiêu cây cỏ lai hàng tay ta…

Và khi đến tận nơi mới biết đó là giọng ca tự nhiên nói về công việc đang làm của một cô gái cắt cỏ, Chúa Trịnh rất đỗi ngạc nhiên bởi cô gái khéo ví von cái liềm đang cắt cỏ như nửa mặt trăng và công việc cắt cỏ nhẹ nhàng như một điệu múa cùng cây cỏ… thật là tài tình, lý thú. Chúa mang lòng yêu mến và vời cô về kinh làm vợ. Nhưng ở kinh đô chẳng bao lâu, cô lại chạnh lòng nhớ làng quê nhỏ nơi thôn dã nên đã xin trở về sống cho đến cuối đời ở làng Diềm.

Nhữ Nương được thờ như tổ của làn điệu dân ca Quan họ Kinh bắc, tuy cả vùng Kinh Bắc có 49 làng đều biết hát Quan họ, nhưng chỉ làng Diềm có đền thờ bà. Khi trở về làng Diềm, bà đã tuyển chọn trai thanh, gái lịch để dạy họ hát thành các nhóm (bọn) đối nhau, nâng lên thành loại hình hát tập thể rất thanh lịch nghệ thuật. Những lời bài hát do các liền anh, liền chị sáng tác mang nhiều ý nghĩa sâu xa về cuộc sống nhân văn, đạo lý, với âm điệu luyến láy, chuyển đổi phách độc lạ, lại được diễn theo lối hát đối, hát bọn rất tình tứ ngày càng được tích lũy, hoàn thiện thành sản phẩm văn hóa đặc sắc. Bà được dân làng kính trọng lập đền thờ như Tổ của làn điệu dân ca Quan họ nổi tiếng xứ Kinh Bắc:

Thủy Tổ quan họ làng ta

Những lời ca xướng Vua Bà sinh ra

Xưa nay nam nữ làng Diềm

Ai giọng ca giỏi ắt là hiển vinh.

 

Lời ca Quan Họ ở làng quê Phật giáo nên có nội dung ẩn chứa nhiều điều tương đồng với tư tưởng Phật giáo, khuyên chúng sinh rèn tâm, dưỡng trí, thức tỉnh tính thiện nơi con người, gắn kết  tình người… Tục “kết chạ” trong lễ hội Quan Họ không chỉ trong một làng xã mà vươn tới gắn kết giữa các bọn hát của các làng đã tạo nên bản sắc riêng của cộng đồng văn hóa Kinh Bắc rộng lớn. Năm 2009 UNESCO vinh danh Dân ca Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Việt Nam, và được UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt đề án triển khai “Chương trình hành động quốc gia về bảo tồn phát huy di sản văn hóa Quan họ”.

Như vậy, có thể hiểu Làng Diềm đã gắn với Phật giáo Luy Lâu – Trung tâm Phật giáo đầu tiên của Việt Nam với những đóng góp tạo nên lịch sử, bản sắc văn hóa Kinh Bắc ngay từ đầu. Làng nào ở Kinh Bắc cũng có chùa. Nơi làng Diềm cũng có đền, đình và chùa rất sớm, được nhà nước xếp hạng cụm di tích lịch sử quốc gia như: đền, chùa, đình Quả Cảm, đình và chùa Diềm (tên chữ là Hưng Sơn tự). Trong các lễ hội của làng Diềm, hát Quan họ luôn là một phần không thể thiếu, kể cả trong lễ hội Phật giáo, Phật tử ra chùa tu tập hay làm công quả ngoài thời gian xem nội điển lại còn ôn luyện hát quan họ để thấu triết lý của lời ca quan họ cổ xưa. Đặc biệt, các lời ca mang tư tưởng từ bi, bác ái, vị tha cũng như triết lý sống tránh xa tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ để đạt tới yên vui và trí tuệ của giáo lý Phật giáo đã gắn liền với văn hóa Quan Họ.

 

  1. Chùa Làng Diềm (chùa Hưng Sơn) với cuộc sống hôm nay

Chùa Hưng Sơn tọa lạc ngay đầu làng Diềm, không gần dân mà cũng không xa dân. Phía bên trái chùa có hồ nước rộng đối trước mặt đình Diềm, bên phải có núi Quả Cảm núi Kim Sơn chầu về. Sát ngay cổng chùa là nhà chứa quan họ, nhà văn hóa khu Viêm Xá, bên trên cạnh có Giếng Ngọc (được cho là do con gái vua Hùng thứ sáu tạo dựng), đến nay nước vẫn chưa bao giờ cạn. Cùng đó là đền thờ Mẫu Tam Phủ và Nhị vị Công Chúa linh thiêng, dân thường gọi là đền Cùng (Đền Cùng Giếng Ngọc). Xa phía trước chùa Diềm có núi Dạ làm định vị hướng đi về chùa.

“Dù ai đi lễ tứ phương

Chi bằng linh hiển thắp hương đền Cùng

Đi qua cổng chùa, vào trong khu tường bao xung quanh là đến Tam Bảo (Chính điện), Lầu Quán Âm, , nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Tòa soạn, vườn cây quanh chùa…:

PGS Tiến sĩ Hoàng Thị Thơ chủ trì điều phối hội nghị viết sách Chùa Hưng Sơn, 2022. Ảnh: Phật tử

Cổng chùa: Cổng chùa xưa không còn (và cũng thiếu nhiều sử liệu), qua nhiều đổi thay, hiện nay cổng chùa khá giản đơn, chưa có dáng dấp cổng chùa miền Bắc. Để tương xứng với bố cục chung khá khang trang, ĐĐ Thích Quảng Hợp – hiện là trụ trì –  hy vọng sẽ có đủ duyên để xây một cổng Tam Quan có gác Chuông làm cổng chùa làng.

Lầu Quán Âm ngay phía trái cổng hướng ngoài nhìn vào Tam Bảo, xưa là ao tù chứa nước thải, nay được cải tạo, xây mới làm Lầu Quán Thế Âm Bồ Tát. Bây giờ phía dưới là hồ thả cá và sen rất sinh động, trên cao đặt tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát bằng đá trắng, đèn điện trang trí, với hàng lan can bao quanh tạo thành đường đi có thể nhiễu quanh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Khung cảnh Lầu Quán Thế Âm uy nghi tráng lệ, tôn thêm cảnh quan của nhà chùa ngay từ cổng vào.

Chính điện (Tam Bảo): năm 2006, Chính Điện được xây gồm bảy gian tiền đường, hậu cung hai gian một dĩ; tường xây gạch trát phẳng sơn trắng, mái lợp ngói mũi hài, cột hiên, bậc bằng đá xanh, tượng Phật, hoành phi câu đối bài trí theo đúng kiểu chùa miền Bắc. Chính điện là ban thờ chính trong chùa, chủ yếu bài trí tượng từ ngoài vào trong và từ trên cao xuống thấp như: các tượng Đức Ông, Hộ Pháp Thiện (Khuyến Thiện), Hộ Pháp Ác (Trừng Ác), Bát bộ kim cương, Quan Âm Thị Kính, bẩy vị Phật Dược Sư, Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát Thế Chí, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền, Đức Thánh Hiền, Địa Tạng Bồ Tát…; Trên hàng cao nhất là các tượng: Phật Di Đà, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc tiêu biểu cho ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai). Tiếp các hàng từ trên cao xuống thấp, nhiều pho tượng Phật cổ được sắp đặt theo ngôi vị, rất nguy nga tráng lệ, tạo nên không khí linh thiêng của khu chính điện trong ngôi chùa. Hệ thống các tượng thờ theo mô típ chùa Đại thừa Bắc tông Việt Nam.

Tượng: Chùa Diềm có nhiều tượng Phật (tuy bị mất một số), niên đại khoảng thế kỷ XVII-XVIII, với kỹ thuật tạo tác tinh xảo, giá trị nghệ thuật cao, có bức bằng gỗ từ thời Lê. Theo văn bia năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), thì có nhiều pho tượng cổ như: Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Đức Chúa  Ông… trong văn bia đã chép, gần đây nhà chùa đã cho tạc thêm hai pho tượng Hộ Pháp được đắp bằng đất (thổ) cao gần chạm mái rất điển hình của Phật giáo Luy Lâu, Kinh Bắc.

Nhà Tổ được xây dựng đã lâu đời, gồm khoảng 5 – 7 gian lợp ngói với các hàng cột to, khung mái tất cả đều bằng gỗ lim, nhưng qua hai lần ngập lụt những năm 1957 và 1971, và trải qua hai thời kỳ chống Pháp chống Mỹ, lại nằm trên nền đất thấp quanh năm ẩm ướt, nên nhà Tổ có phần đã bị mục nát, khung mái hư dột. Năm 2015 ngôi Nhà Tổ đã được dân làng Diềm cùng Phật tử và vị trụ trì Thích Quảng Hợp trùng tu theo phiên bản cũ rất khang trang tố hảo. Công ty Mùng Bảy tháng Bảy do ông Nguyễn Văn Bảy quê huyện Thuận Thành làm Giám đốc nhận thi công phần nề, Đội thợ mộc do ông Hòa quê Gia Bình đảm nhiệm phần mộc.

Nhà Mẫu ở phía sau nhà Tổ, gồm bảy gian bằng gỗ (xây từ 2003) do doanh nhân Nguyễn Tiến Vượng (ngụ tại 118 Bà Triệu, Hà Nội) đã cùng gia đình, bạn bè và nhân dân địa phương phát tâm xây cất khang trang, trước đó chỉ là ban thờ Mẫu nằm trong khu nhà Tổ.

Trai đường, Tòa soạn được Phật tử, dân làng cùng ĐĐ Thích Quảng Hợp xây mới thành 7 gian vào năm 2018, tạo cơ sở vật chất càng thêm đàng hoàng.

Tháp tổ: Qua minh văn trên chuông cổ của chùa và cụ thể hiện nay chùa Diềm vẫn cúng giỗ Tỳ kheo Hải Thuần – Thích Hạo Hạo (sinh năm Đinh Hợi, quê ở xã Vân Khám, Huyện Tiên Du (Bắc Ninh) theo nghi lễ nhà Phật vào ngày 25 tháng 9 âm lịch, đồng thời Mộ tháp của tỳ kheo Hải Thuần Thích Hạo Hạo được Phật tử và dân làng trân trọng gọi là “lăng cụ Quản Tăng”. Ngoài ra có một số thông tin cho rằng, Tỳ kheo Hải Thuần khi viên tịch làm lễ trà tỳ, xá lợi được thu lượn cũng được thờ ở Chùa Bảo Quang[2] trên Núi Lãm hiện nay vẫn còn tháp thờ. Với Mộ Tháp này được xây dạng tháp to cao, nhiều tầng, theo hướng Nam, đặt ngay chân núi Kim Lĩnh hướng phía trước làng, cho thấy, chùa Hưng Sơn trước đây từng có những vị cao tăng nổi tiếng cả một vùng, vừa có tài có đức, từng tụ hội được nhiều tăng ni, Phật tử và đóng góp nhiều cho sự thịnh vượng của chùa làng cũng như Phật giáo Kinh  Bắc.

Hưng Sơn chùa soi

Trần thuộc Nam phương

Phong cảnh tố hảo

Chế độ kỷ cương

Phật thần hiển ứng

Phù hộ quê hương

Trước sông sau núi

Trong ngoài trang nghiêm

 

  1. Hệ thống bia ký, hoành phi, câu đối của chùa Diềm

Hệ thống bia ký, hoành phi, câu đối của chùa Diềm cũng rất phong phú, và có giá trị, thể hiện văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo làng Diềm.

Bia ký: Trong văn bia của chùa Hưng Sơn năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) hiện đang được lưu giữ trong chùa còn ghi rõ: “Phong cảnh trang nghiêm tràn đầy lẽ kỳ diệu, xóm làng yên tĩnh, cảnh đẹp có phúc điền thường trú ở thế gian giữ mạch đồng ruộng để yên dân cho thêm tốt tươi mãi…”. Văn bia cho thấy ngôi chùa Làng Diềm (Chùa Hưng Sơn) là nơi bảo tồn và phát huy nhiều giá trị tốt đẹp của các thế hệ kế tiếp nhau của cộng đồng dân cư và luôn được dân làng và địa phương trân trọng gìn giữ, quyên góp, tôn tạo nhiều lần. Bia Cảnh Hưng cũng ghi rõ quá trình tôn tạo và trùng tu chùa, khẳng định sự hiện diện của chùa Diềm là từ trước năm 1649 và quy mô của chùa Diềm rất lớn, với kiến trúc nội công ngoại quốc. Trên bia đá chùa có bài kệ ca ngợi phong cảnh và vai trò tâm linh của chùa Hưng Sơn rằng:

Phạm vũ Hưng Sơn thế chênh vênh

Phong cảnh trang nghiêm muôn việc thành

Khai sáng trùng tu công còn đó

Bia đá lưu truyền khắp tính danh”.

Bia đá Chùa Hưng Sơn còn lại chụp năm 2024 –  Ảnh: Văn Thành

Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm lịch sử và biến đổi thiên nhiên khắc nghiệt, chùa Diềm hôm nay chỉ còn là một quần thể kiến trúc nhỏ với kiến trúc truyền thống hình chữ Đinh của Phật giáo phía Bắc Việt Nam. Nhờ hệ thống bia ký mà Phật tử và người dân làng Diềm biết, tự hào và giữ gìn được giá trị ngôi chùa của làng mình.

Chuông: Minh văn trên quả chuông[3] đúc năm Phúc Thái thứ 7 (1649, Kỷ Sửu) đời vua Lê Chân Tông còn ghi: “Chùa Hưng Sơn, Phủ Từ Sơn là một danh lam cổ tích, xã Viêm Xá mới bỏ tiền của đúc quả chuông, tức là không phải là việc phúc đức và nghe tiếng để niệm phật, mà chính là trí tuệ đã hòa vào trái tim, thấy suốt sự lý, như biển lớn tràn đầy phúc tuệ…”. Minh văn này phản ánh được trình độ văn hóa, văn minh cao của Phật tử và người dân làng Diềm đã vun bồi cho ngôi chùa làng không chỉ về tinh thần mà cả vật chất!

Hoành phi, câu đối (đại tự) của chùa Hưng Sơn là hệ thống giá trị văn hóa vật thể vừa giá trị văn hóa phi vật thể quý giá, giúp minh chứng lịch sử làng Diềm, chùa Hưng Sơn và Phật giáo Kinh Bắc qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt các hoành phi câu đối này đã được ĐĐ.TS Thích Quảng Hợp hệ thống lại và dịch sang Quốc ngữ[4], giúp cho Phật tử và khách thăm chùa Diềm càng thấm hiểu nhiều phương diện tinh thần của chùa Diềm:

Chẳng hạn, khi bước vào sân chùa là thấy ngay đại tự trên Nóc cuốn thư ngoài trời Tam Bảo đề “Phổ Chiếu” nêu rõ vai trò vị trí truyền bá niềm tin Phật giáo của ngôi chùa làng rộng khắp trong khu vực Kinh Bắc. Hay chữ trên nóc nhà Tổ và ngoài hiên gian giữa Tam Bảo ghiHưng sơn Thiền Tự khẳng định “Hưng Sơn tự” là tên chữ của ngôi chùa làng. Cũng như dòng Đại tự ghi / 興山 / [Dịch nghĩa: Đức sáng hương thơm / Chùa Hưng Sơn / Ngày tốt mùa đông năm Giáp Thân (2004) tạo đại tự] là lời khẳng định sự lan tỏa giá trị đạo đức, tâm linh tốt đẹp của chùa làng. Để tìm hiểu pháp tu hành của Phật giáo làng Diềm thì hoành phi, trên hàng Tam Bảo thứ ba có ghi: “Mọi tướng bình đẳng/ Không mà sắc/ sắc mà không/ vô biên chân diệu/ Phật là tâm/ tâm là Phật/ tự tại trang nghiêm”. Đó chính là tinh thần vô chấp đặc biệt siêu vượt của Phật giáo với triết lý Tính Không biện chứng uyên áo, tự giác, bình đẳng của Thiền tông Đại thừa tại ngôi chùa làng Diềm; lại được khẳng định thêm bằng câu đối trong nhà Mẫu “Trước là rộng lượng sau là... tiếp nối đèn tuệ giữ tông thiền”.

Đi sang phía ngoài Tam Bảo sẽ thấy hai đồng trụ có đề các câu đối:

Người thị hiện luôn giác ngộ cứu độ khắp chúng sinh.

Tùy phương tiện hiển ứng thông thân làm lợi chúng sinh.”

Mắt trí tuệ tròn đầy khai sáng khắp trên trời dưới đất.

Thuyền từ khéo hóa độ phương này duy trì pháp giới kia.

Các câu đối này cho thấy mong muốn, kỳ vọng của các vị trụ trì ngôi chùa luôn theo tinh thần nhập thế tích cực, không chỉ “cứu độ”, “làm lợi” mà chính là qua đó “khai sáng”, “hóa độ” cho đều khắp!

ĐĐ.TS Thích Quảng Hợp còn sưu tập được một số chữ trên cột chùa Hưng Sơn cổ xưa còn sót lại và dịch sang Quốc ngữ, cho thấy lịch sử cổ kính của ngôi chùa và công sức tôn tạo, bảo tồn của nhiều thế hệ tín chủ, Phật tử của chùa:

Một làng xã xưa có tín chủ Nguyễn Đức Bảng và Nguyễn Thị Thành, Nguyễn Đức Kiền tự Thụy Duyệt hiệu Từ Phi và Nguyễn Thị Thản tự Hưng Tổ Tỷ hiệu Từ Hiền cùng phát tâm công đức một cây gỗ to để làm chùa. Phật lịch, năm Kỷ Sửu tháng ba ngày lành[5].”

Lễ hội là sinh hoạt văn hóa truyền thống của mỗi làng quê hàng năm. Tại chùa Diềm vẫn diễn ra các lễ trọng của Phật giáo như một loại hình sinh hoạt của Phật tử và bà con làng Diềm: Đó là các lễ Phật Đản (ngày 8/4 âm lịch), Vu Lan rằm tháng 7, Thượng Nguyên (15/1 âm lịch), Vía Phật Thích Ca xuất gia (8/2 âm lịch), Vía Phật Quan Âm Bồ Tát thành đạo (19/6 âm lịch), Giỗ Tổ ngày 25/9 Âm lịch .v.v… Như trên đã nói, các lễ này đều có sự hiện diện của nghệ thuật hát Quan Họ đặc sắc của làng Diềm, nhiều Phật tử thông thuộc câu hát quan họ cổ cho rằng ngày xưa đức Vua Bà khai sáng Quan họ cũng được thờ tại chùa Hưng Sơn sau làm được Đền thờ Vua Bà mới chuyển sang thờ bên đó.

  1. Các vị trụ trì gắn với thăng trầm của chùa Diềm (cho đến nay)

          Có chùa, có lễ, có đầy đủ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của ngôi chùa làng, thì không thể không ghi nhớ vai trò của các vị trụ trì với các tông môn Phật giáo từ xưa cho đến nay, liên tục tu bồi và phát triển ngôi chùa.

Qua bản Khoa Cúng Tổ Chùa Viêm Xá do ĐĐ. Thích Quảng Hợp phiên dịch[6], có thể biết phần nào về các tông môn chính đã hiện diện ở chùa, đó là Thiền tông Đại thừa luôn được nhắc đến cùng lịch sử chùa. Đó là trước đây chùa từng có thực hành Thiền Lâm Tế, nhưng từ Sư cụ Thích Đàm Nhuận bàn giao chùa sư Thích Diệu Thủy đến ĐĐ. Thích Quảng Hợp lại sinh hoạt theo hệ phái Thiền Tào Động (thuộc sơn môn Chùa Chân Tiên và chùa Tào Sách ở Hà Nội). Các vị trụ trì qua các thế hệ đã có đóng góp vật chất và tinh thần vô cùng quan trọng để giữ gìn và phát triển được ngôi chùa Diềm như hôm nay. Xin điểm qua một số vị trụ trì (có tư liệu khá rõ) như:

Tỳ kheo (khưu) Hải Thuần – Thích Hạo Hạo (sinh năm Đinh Hợi), quê ở Xã Vân Khám, Huyện Tiên Du (Bắc Ninh) mất tại chùa ngày 25 tháng 9 âm lịch (không rõ năm, nhưng bảo tháp được thờ trong làng). Nay chùa Làng Diềm lấy đó là ngày làm giỗ tổ theo nghi lễ nhà Phật.

–  Sư bà Thích Diệu Như: Theo bản văn đúc mới chuông chùa Hưng Sơn năm Phúc Thái thứ 7 (1649) ghi về sư bà Thích Diệu Như (thế danh Đỗ Thị Ngọc Cảnh) xuất gia trụ trì chùa Hưng Sơn đã cùng các vương công, thập phương tín thí phát tâm cúng dường tiền của để đúc quả chuông lớn nặng tới hàng ngàn cân có dư, nhằm nguyện cầu Phật, Bồ tát gia hộ cho quốc thái dân an, cứu độ chúng sinh giúp mau được giác ngộ. Điều này cho thấy chùa Hưng Sơn từng nổi tiếng và được hàng vương tộc cúng dường, hỗ trợ lớn.

Sư bà Thích Diệu Thủy (thế danh Đỗ Thị Thủy) được dân làng thỉnh về trụ trì (năm 2003) sau một thời gian chùa không có sư. Sư bà Thích Diệu Thủy là bậc chân tu thuộc sơn môn Chùa Chân Tiên – Hà Nội. Năm 2007 sư bà độ được một đệ tử Thích Huệ Khánh (thế danh Nguyễn Mộng Hiền), cả hai đồng hành hòa hợp, cùng dân tạo được nhiều thành tựu mới cho chùa làng Diềm như:

–  Thành lập đội Tụng Kinh A Di Đà ngày đêm phục vụ chùa.

– Xây dựng mới ngôi Tam Bảo (hoàn thành vào ngày 20/12/2006).

– Tô lại toàn bộ các tượng cũ, đắp nhiều tượng mới.

– Đúc một quả chuông mới nặng khoảng trên 500kg.

– Sắm 1 trống bằng gỗ Sao hạng trung và một số hạng mục để chùa làng ngày thêm tố hảo.

Ngày 07/12/2012, sau chín năm trụ trì, sư thầy Thích Diệu Thủy đã bàn giao lại chùa Hưng Sơn cho dân làng Diềm trông nom, quản lý vì nhiều lý do khách quan và chủ quan.

Đại đức Thích Quảng Hợp hiện nay đang trụ trì chùa Diềm. Tiếp sau sư bà Diệu Thủy, một thời gian không có người trụ trì chùa, ngày 02/07/2014, Phật tử và lãnh đạo địa phương thôn Viêm Xá (làng Diềm) đã thỉnh được Đại đức, Tiến sĩ Thích Quảng Hợp (thế danh Trần Văn Thành), quê Hải Phòng, đệ tử của Hòa thượng Thích Nguyên Hạnh (thuộc sơn môn Tào Động chùa Tào Sách) về tiếp tục kế đăng trụ trì, hoằng pháp, duy trì sức sống của chùa Diềm, phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân địa phương.

Từ khi về trụ trì chùa Diềm đến nay, được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, sự yêu kính, nhất tâm ủng hộ Phật pháp của bà con làng Diềm và cả Phật tử hai giới tại gia và xuất gia, Đại đức Thích Quảng Hợp đã toàn tâm, toàn ý thực hành Phật sự, đẩy mạnh các hoạt động của nhà chùa, như:

  • Tổ chức các khóa tu cho thanh, thiếu niên về giáo lý căn bản của Phật pháp, truyền thụ Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới… để phát huy tinh thần từ bi, vị tha của Phật giáo hòa nhập vào đời, hướng cho dân làng và Phật tử ngày càng được cuộc sống đoàn kết, an lạc và văn hóa.
  • Tổ chức Phật tử đóng góp ủng hộ các trường học, giúp đỡ người nghèo vùng sâu, vùng xa, gia đình thương binh liệt sỹ, đồng bào các vùng bị thiên tai lũ lụt, người bệnh hiểm nghèo trong đợt dịch COVID, …
  • Xây dựng Hội từ thiện chùa Hưng Sơn thường xuyên tặng quà từ thiện cho bệnh nhân Khoa ung bướu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh và nhiều địa điểm khác trên tinh thần từ thiện, phát tâm từ bi.
  • Vận động tín đồ Phật tử chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng nông thôn mới.
  • Hàng năm, vào dịp an cư kết hạ, Đại đức giảng chính pháp tại chùa giúp Phật tử và bà con hiểu thêm giáo lý nhà Phật.
  • Tổ chức nghiên cứu về lịch sử, di tích của chùa trong toàn cảnh làng Diềm và Phật giáo Kinh Bắc, nhất là sưu tầm các bia ký, văn cúng, hoành phi, câu đối, cũng như các ghi chép[7] về làm tượng, xây chùa … có liên quan đến sự phát triển chùa Diềm.
  • Đại đức Thích Quảng Hợp là một tiến sĩ được đào tạo chính quy tại khoa Triết học của Học viện KHXH (năm 2016) với đề tài luận án “Nguyên lý tính Không của Bồ Tát Long Thọ và ý nghĩa của nó”. Đại đức đã không ngừng nâng cao tri thức Phật học của bản thân và của Phật tử bằng việc làm một thư viện có phòng đọc và cũng là nơi có thể tổ chức tọa đàm các chủ đề Phật học thiết thực, hay cụ thể như bàn về viết sách “chùa Hưng Sơn” để lưu lại lịch sử của chùa cho làng Diềm về mãi sau.
  • Trùng tu, xây mới nhiều hạng mục của chùa Hưng Sơn.

Có thể nói, ngôi chùa Hưng Sơn hiện nay đang ngày càng quy củ, khang trang và vị trụ trì đang tiếp tục tham gia đóng góp tích cực trên các phương diện tinh thần, vật chất đúng tinh thần “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh” của Phật giáo Việt Nam.

 

  1. Tạm kết

Bài viết này qua một số tư liệu (tuy không đầy đủ) song bước đầu đã thấy được một số nét căn bản như:

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, có huyền sử từ thời vua Hùng Vương thứ ba, và có lịch sử (chính sử) ít nhất khoảng 374 năm, tức từ thời đầu của Phật giáo Luy Lâu.

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) còn gắn liền với một trung tâm văn hóa nghệ thuật dân gian lâu đời của hát Quan Họ là đền thờ thủy Tổ của Quan Họ, mà UNESCO đã công nhận đây là giá trị văn hóa đặc trưng của Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh).

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) có đầy đủ các giá trị căn bản về văn hóa vật thể và phi vật thể của một ngôi chùa Đại thừa của Phật giáo miền Bắc.

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) có bộ đại tự chứa đựng nhiều nội dung đặc trưng của tư tưởng Phật giáo Thiền tông Đại thừa.

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) có lịch sử nhiều vị trụ trì với sự đan xen sơn môn hệ phái, song chủ yếu đều thuộc Thiền tông Đại thừa (Thiền Lâm Tế, Thiền Tào Động)

Chùa Làng Diềm (Hưng Sơn) hôm nay đang tiếp tục phát huy tinh thần nhập thế tích cực vì Đạo pháp –  Dân tộc – XHCN.

 

Hà Nội, mùa Phật Đản, Giáp Thìn (2024)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chùa Viêm Xá

Tác giả: Lê Văn Sơn[8]

Chùa Viêm Xá có tên chữ “Hưng Sơn Thiền Tự” chùa được xây dựng từ rất lâu đời, niên đại chính xác thì chưa có tài liệu nào ghi lại cụ thể về thời gian dựng chùa, chỉ có tài liệu và một số tấm bia đá, quả chuông và một số dữ liệu khác còn lại cho biết thông tin về quá trình tu bổ chùa.

Lịch sử thì đất Bắc Ninh là đất mà đạo Phật truyền và ảnh hưởng sớm từ thế kỉ 1-2 sau Công nguyên nơi đầu tiên là Luy Lâu – Thuận Thành Bắc Ninh. Chính vì vậy sự ảnh hưởng của Phật giáo vào nơi đây chắc cũng từ lâu đời, chùa Hưng Sơn thuộc thôn Viêm Xá cũng là một trong số những ngôi chùa có lịch sử lâu đời.

Khu vực làng Diềm (Viêm Xá) là một khu vực cư trú lâu đời của người Việt cổ, theo các di chỉ khảo cổ học tìm thấy trên núi Kim Sơn – núi cao thuộc dãy núi quả cảm ngay sát bờ song Cầu, các nhà khảo cổ học tìm thấy nơi đây có rất nhiều cổ vật bằng đồng, như mũi tên đồng, xoong nồi, rìu giáo, dao bằng đồng, và nhiều đồ sành xứ, đặc biệt người dân nơi đây còn tìm thấy trong lòng núi cao khi xây dựng làm nhà những mặt trống đồng bằng gốm, và gạch vuông to, sành sứ; giáp lò gốm Đặng Xá và rìa sông còn đào thấy rất rất nhiều đồ sành như chum, vại, ang bằng sành của thế kỉ 8-9 điều đó cho thấy sự quần tụ của cư dân nơi đây rất sớm các di chỉ đồ đồng cho thấy bằng chứng của văn hóa Đông Sơn cách đây hơn 2500 năm đã hiện hữu nơi đây, mà nơi đây gần trung tâm văn hóa Luy Lâu nơi truyền bá Phật giáo đầu tiên. Từ ấn độ sang Luy Lâu – Bắc Ninh, Bành Thành, Lạc Dương – Trung Quốc, đó là một trong 3 trung tâm truyền giáo đạo Phật lớn và sớm nhất thời bấy giờ. Điều đó cho thấy chùa Viêm Xá có sớm khoảng thế kỉ I – III sau khi trung tâm Phật giáo Luy lâu được hình thành, có thể mới đầu chỉ đơn sơ và sơ sài nhưng sự hình hành chùa thờ Phật là đã có. Vì khi đạo Phật vào Việt Nam, nó phù hợp với lối sống và cách sinh hoạt nên được người dân tiếp thu nhanh, mỗi làng mỗi nơi quần tụ cư dân thông thường sẽ hình thành chùa nơi họ cư trú.

Chùa Viêm Xá nằm ở khu đất cao đầu làng, mặt quay hướng Nam hợp với Đền, Đình và đền Giếng tạo thành một quần thể di tích cổ kính của làng Diềm.

Chùa Viêm Xá vốn được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung Hưng được trùng tu với quy mô lớn. Những tấm bia đá của chùa có niên đại thế kỷ XVII – XVIII đã cho biết nhiều thông tin về ngôi chùa này cách đây trên 300 năm.

Tại thời điểm năm 1945 trở về trước chùa Viêm Xá là một công trình kiến trúc lớn trong vùng gồm nhiều toà ngang dãy dọc với quy mô đồ sộ.  Ngoài cùng là Tam quan và Gác chuông. Trung tâm là toà Tam Bảo hình chữ “Đinh” gồm 5 gian Tiền đường và 4 gian Thượng điện. Nhà Trai ở sau Tam bảo với các phòng học, phòng chứa kinh pháp, phòng ăn, phòng ngủ của sư tăng. Nhà khách ở hai bên hành lang, nối Tam Bảo và nhà Trai. Song song với nhà khách một bên thờ Phật Quan Âm, một bên thờ thánh “Trấn Vũ”. Nhà Tổ ở sau nhà Trai. Ngoài ra, còn có nhà soạn cỗ và trầu nước ở hai bên phía trước nhà tổ. Ngang cùng với dãy nhà tổ còn là nhà bếp, nhà kho chứa thóc gạo, cối xay…

Theo sự truyền khẩu của người dân nơi đây thì xưa kia làng Viêm Xá có 2 chùa, 1 chùa Hưng Sơn nơi đây và một chùa tại khu vực Mả Bến, dựa theo sự truyền khẩu đó thì chùa tại Mả Bến mà nhân dân nơi đây gọi là khu vực trạm y tế xã Hòa Long bây giờ, về chứng tích và thông tin còn lại chỉ là trên hình thức truyền khẩu

Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến, chùa cùng chung số phận với đình bị rỡ bỏ gần hết những kiến trúc xung quanh tòa Tam bảo. Từ những năm 2000 trở về trước,  chùa Hưng Sơn còn lại toà Tam bảo và 4 gian nhà Tổ và cổng Tam quan. Chùa vẫn còn bảo lưu gìn giữ hệ thống tượng Phật cổ, đồ thờ và nhiều tài liệu cổ quý khác. Hiện nay chùa đã được tu sửa lại hoàn toàn khu vực Tam bảo, nhà Trai và dãy nhà hành lang, riêng gian nhà tổ sửa sang lại nhưng mang tất cả những kiến trúc cổ còn lưu giữ được dựng lên, nên chúng ta đến chùa vẫn có thể nhìn thấy những kiến trúc hoành phi câu đối, những hoa văn và nét trạm khắc của thời Lê Trung Hưng năm 1772.

Chùa Viêm Xá cổ kính và những bức tượng Phật như có hồn qua những tài liệu và được người dân ghi lại:

Ngay từ đầu làng Viêm Xá thấp thoáng qua những tán cây cổ thụ, du khách đã thấy cổng Tam quan có hàng chữ Hán lớn “Hưng Sơn Thiền Tự”. Qua Tam quan vào đến một sân gạch khá lớn và ở đó vẫn còn dấu vết đá kè, đá chân cột của những công trình kiến trúc chùa trước kia. Qua sân là vào đến toà Tam bảo, kiến trúc chính của ngôi chùa. Tam Bảo được dựng theo kiểu chữ “Đinh”, gồm 5 gian Tiền đường và 4 gian Thượng điện, với bộ khung gỗ lim to khoẻ. Cột cái có chu vi 1,57 m, cột quân chu vi 1,27 m và vẫn còn những dấu mộng của sàn gỗ ngày xưa. Tiền đường 5 gian có 6 bộ vì nóc kiểu “chồng giường”, ăn mộng với 4 hàng cột dọc và 6 hàng cột ngang, tường gạch xây bao quanh, cửa mở ở gian giữa. Thượng điện nóc kiểu “giá chiêng”, ăn mộng với Tiền đường là những kẻ dài với 4 hàng cột dọc, 2 hàng cột ngang, tường xây bao quanh hậu và đầu hồi. Cũng trên kiến trúc gỗ, đã để lại nhiều lớp tu bổ tôn tạo với các niên đại khác nhau. Dấu ấn kiến trúc cổ nhất là thuộc vào giữa thế kỷ XVIII (triều Vua Lê Hiển Tông 1740 – 1786, như trong văn bia chùa đã ghi lại), thể hiện ở những hàng cột gỗ lim to khoẻ vẫn còn nguyên những dòng chữ Hán tên của những người cung tiến, những nét hoa văn trang trí hình rồng với những nét mây mác trên đầu dư và bẩy của kiến trúc. Song giá trị nổi bật ở đây lại thuộc về những cổ vật mà Chùa đã bảo lưu và gìn giữ được, đặc biệt là về nghệ thuật điêu khắc tượng tròn.

Từ những năm 2003-2004 trở về trước Chùa Viêm Xá hiện còn gìn giữ được hệ thống tượng gỗ cổ gồm 28 pho tượng Phật, 6 pho tượng Hậu Phật và 6 pho tượng tổ Chùa và 1 pho tượng Mẫu. Những pho tượng trên có niên đại từ thế kỷ XVII đến XIX với nhiều lớp tượng, phong cách nghệ thuật đẹp, đặc sắc. Các lớp tượng ở đây như : Tam Thế, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Thuyết Pháp, Quan Âm, Thích Ca Sơ Sinh, đặc biệt còn có cả tượng của Đạo giáo như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Tất cả các pho tượng này đều là những tác phẩm mang tính nghệ thuật đẹp, đặc sắc, mang giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc truyền thống tượng tròn Việt Nam.

Sau những năm 2003 – 2004 có khoảng 10 pho tượng đẹp cổ đã bị mất do lũ săn cổ vật ăn cắp, làm tổn thất một số lượng lớn tượng phật ở chùa Diềm, một số pho tượng bị mất như bộ tam thế Phật, Di Lặc, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn

Mặc dù những pho tượng cổ này không còn nữa nhưng những gì còn lại có giá trị vô giá, giúp ta và những thế hệ mai sau cũng có thể dễ dàng hình dung được sự cổ kính và độc đáo của hệ thống các pho tượng cổ mà hiếm ngôi chùa nào có được. Với sự phát triển của xã hội thì sự lưu lại những giá trị cổ vật về vật chất và tinh thần càng được coi trọng, nên những giá trị này là một phần tinh thần không thể thiếu được của chùa Diềm trong tâm trí của người dân nơi đây. Đến thời điểm này, chùa Hưng Sơn đã được trùng tu với quy mô lớn và có nhiều sự thay đổi trong cách bài trí cũng sắp xếp các pho tượng.

Dưới đây là hệ thống và cách bài trí các pho tượng Phật của chùa Hưng Sơn những năm 2003 trở về trước từ dưới lên trên khi tượng chưa mất.

Hàng tượng thứ nhất: toà cửu Long – Thích Ca Sơ Sinh:

Bộ tượng này được tạo hình là một cậu bé đang đứng, mặc váy ngắn, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, đứng giữa cái khung hợp bởi 9 con rồng chầu đầu vào đang phun nước. Những con rồng chầu đang phun nước xung quanh ẩn hiện trong những đám mây nét mác, qua đây cho biết đây là pho tượng có niên đại khoảng thế kỷ XVIII. Hai tượng Bồ Tất đứng sát cạnh toà Cửu Long tay kết ấn liên hoa. Tượng Bồ Tát đứng bên trái đầu đội mũ Thiên quan có hoa văn hình hoa sen, cúc với mây mác, khuôn mặt đầy đặn từ bi, hiền hậu, mũi cao đầy, lông mày cong và mỏng, đôi mắt hiền từ, cổ cao nhiều ngấn, thân hình thon thả, áo dài khoác ngoài không đóng chảy dài xuống tận đài sen. Căn cứ vào phong cách tạo tác và hoa văn trên tượng thì đây là pho tượng có cùng niên đại với pho Thích Ca Sơ Sinh thuộc khoảng thế kỷ thứ XVIII. Bồ Tát đứng bên phải tượng Thích Ca cũng được tạo tác tương tự, chỉ có khác một chút là đội mũ có hình tháp mây lửa bốc lên, song hai pho tượng Phật đứng bên cạnh nữa (phía trước hai cột chùa) thì không phải ở vị trí này, hẳn vì một lý do nào đó đã xếp đặt như vậy. Một pho là Ca Diếp mặc áo cà sa kín người, đứng hai tay nắm vào nhau để trước ngực, còn một pho là Anan đầu cạo trọc, áo cà sa trùm kín người đứng hai tay chắp trước ngực. Chắc chắn, ở chùa Viêm Xá do lụt lội, mất mát mà tượng Bồ Tát đứng cạnh tượng Thích Ca Sơ Sinh chỉ còn lại 2 pho và người ta lại bày tượng Ca Diếp và Anan vào vị trí này và thông thường trong các chùa thì có sự đảo lộn và sai vị trí là bình thường vì do điều kiện tự nhiên, con người và xã hội trải dài theo thời gian cũng có sự xáo trộn, có thể do lụt lội hoặc nhiều lý do khác…

 

Hàng tượng thứ hai :

Chính giữa là tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ngồi bán kiết trên toà sen, hai bên là hai tượng Bồ Tát cũng ngồi bán kiết trên toà sen. Tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn có khuôn mặt và thân hình đẹp đầy nữ tính, đầu đội mũ Thiên quan có hoa văn hình mây lửa. Tượng được tạo biểu trưng với 9 cặp cánh tay: đôi tay nâng trước ngực kết ấn chuẩn đề, phía dưới đôi tay này là một đôi tay kết ấn tam muội đặt trên lòng đùi. Còn những cặp tay khác toả ra từ hai bên vai và thân tượng trong tư thế giơ lên và hướng về phía trước, trong mỗi lòng bàn tay đều cầm một vật báu nhà Phật. Áo cà sa khoác ngoài mềm chảy ôm lấy thân hình và những cánh tay của tượng. Hai tượng Bồ Tát ngồi bên cạnh tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn được tạo giống nhau cả về kích thước thân tượng cao l,0m bệ hoa sen cao 0, 20m ). Cả hai đều ngồi bán kiết trên toà sen có khuồn mặt đầy đặn, nét mặt đầy từ bi, hai tay dài, cổ có nhiều ngấn, áo khoác ngoài nhiều lớp chảy nuột ôm lấy hai thân hình tượng bởi những nét chạm nghệ thuật tinh xảo. Cả hai Bồ Tát này tay nâng một nhành mây lửa trước ngực. Căn cứ vào hoa văn có trên mũ tượng thì 3 pho tượng có niên đại khoảng thế kỷ XVIII.

Hàng tượng thứ ba: là bộ tượng Thích Ca Thuyết Pháp (bộ tượng hiện vẫn trên tòa Tam bảo mới)

Pho tượng ở giữa là Thích Ca khá lớn (thân tượng cao l,35m, bệ sen cao 1, 0 m), hai bên là Ca Diếp và Anan trong tư thế đứng trên bệ chắp tay (Ca Diếp hai tay nắm vào nhau trước ngực, còn Anan hai tay chắp trước ngực). Cũng hẳn là do lụt lội mà ở chùa Viêm Xá người ta lại xếp bộ ba này ở những chỗ khác nhau. Tượng Thích Ca Thuyết pháp ngồi thiền bán kiết trên toà sen, hai tay đang giơ lên trong tư thế thuyết pháp. Tượng có đầu nở, tóc xoắn ốc, khuôn mặt đầy đặn hiền hậu, tai to chảy dài, mặc áo pháp hở bên vai phải. Còn hai bên, một là tượng Ca Diếp và một là tượng Anan. Theo Phật thoại, Ca Diếp hơn Phật 30 tuổi, là một tông đồ Bà La Môn giáo, sau giác ngộ theo Phật, trở thành trợ thủ số một của Phật, khi thích ca qua đời, Ca Diếp thành vị tổ thứ nhất. Tượng được tạo là ông già trong tư thế đứng mặt nghiêm nghị, mặc áo cà sa kín người, hai bàn tay khum nắm vào nhau để trước ngực. Còn Anan là em họ của Thích Ca kém thích ca 37 tuổi được giác ngộ đi theo Phật và trở thành thân tín ngày đêm bên cạnh bảo vệ Phật. Ông này rất thông minh có trí nhớ tốt, Phật giảng đạo đến đâu, ông nhớ luôn trong đầu đến đó. Khi Ca Diếp qua đời, Anan thành vị tổ thứ hai. Tượng Anan được tạc với đầu cạo trọc, nét mặt trẻ, hai tay chắp trước ngực. Hai pho tượng (Ca Diếp và Anan) chùa Viêm Xá được tạc vào thế kỷ XVIII (1772) và đến năm 1777 thì dựng bia đá ghi lại.

Hàng tượng thứ tư:  Là bộ Di Đà Tam Tôn (bộ tượng hiện vẫn trên tòa Tam bảo mới)

Không hiểu lý do gì pho ADi Đà lại được đặt lùi lại một hàng sau pho Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí. Trong bộ Di Đà Tam Tôn thì A Di Đà ngồi giữa, bên phải là Bồ Tát Đại Thế Chí, còn bên trái là Bồ Tát Quan Thế Âm. Tượng A Di Đà to lớn, cao 2,30 m (thân tượng cao 1,30 m, bệ cao l,0m) được tạo bằng gỗ sơn son thếp vàng. Cũng giống như ở nhiều ngôi chùa cổ khác, tượng A Di Đà ở chùa Viêm Xá thuộc loại tượng lớn nhất trên điện Phật, để nói lên trí lực to lớn cứu độ chúng sinh của Ngài và cũng chứng tỏ phật A Di Đà chiếm vị trí quan trọng trong Phật giáo Việt Nam. Tượng được tạo trong tư thế ngồi bán kiết trên toà sen, hai tay kết ấn tam muội. Thân tượng tuy to lớn nhưng rất uyển chuyển, mềm mại dưới những nếp sóng áo chảy mượt quanh mình. Tượng có đầu nở, tóc xoắn ốc để lộ Phật đỉnh, tai to dài, mặt đầy đặn, mũi cao đầy, môi hơi mỉm nụ cười, đôi mắt khép hờ nhìn xuống như rọi thấu mọi nội tâm của chúng sinh. Áo tượng có hai lớp với nhiều nếp sóng áo chảy mượt, song lại để hở ngực, phía dưới có yếm ngắn thắt lơ ngang bụng. Toàn thân tượng được phủ lớp sơn mầu cánh gián bên ngoài phủ một lớp vàng mỏng óng ánh. Tượng ngồi trên toà sen lớn có nhiều cánh nở rộ, căng mập. Phía dưới toà sen là bệ bát giác tam cấp. Cấp trên ôm lấy đài sen ở mặt thiết diện phía trước chạm nổi hình rồng lá mây nét mác, các cạnh còn lại chạm nổi sen dây và cúc dây. Cấp giữa của bệ thót lại thành 4 ô hình vuông và 4 ô hình chữ nhật, 4 ô hình chữ nhật chạm nổi rồng lá với những cụm mây mác, còn 4 ô hình vuông chạm nổi 4 chữ “Thọ” cấp dưới cùng sát đất, chạm nổi rồng lá đang bay lượn trong những cụm mây mác. Pho tượng A Di Đà này đã được văn bia của chùa ghi lại rất cụ thể là dựng vào năm 1772 và đến năm 1777 thì lập bia đá nói rõ là được tạc vào cùng thời điểm trùng tu chùa vào thế kỷ XVIII.

Còn hai pho Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Quan Thế Âm cũng được tạo ngồi bán kiết trên toà sen bệ tam cấp và được tạo tác khá giống nhau về hình dáng, chỉ khác ở chi tiết vật cầm trong tay. Pho Đại Thế Chí cầm bình nước cam lồ, còn pho Quan Thế Âm cầm bông sen. Cả hai pho tượng Bồ Tát này đều cao l,20m (thân tượng cao 1, 0 m đài sen cao 0, 20 m) và cả hai đều đội mũ Thiên Quan có hoa vãn hình mây lửa, khuôn mặt đầy đặn hiền từ. Thân hình tượng thon thả mềm mại trong những lớp sóng áo chảy nuột ôm lấy thân mình. Áo tượng hai lớp, nhưng lại để hở ngực có đeo dây anh lạc, phía dưới là yếm ngấn có thắt lơ ngang bụng. Toàn thân tượng được phủ một lớp sơn màu cánh gián, ngoài lại phủ một lớp vàng mỏng óng ánh.

Hàng tượng thứ năm : Bộ tượng Tam Thế ngồi trên cao nhất Thượng điện. Bộ tượng này đã mất.

Lớp tượng này biểu tượng cho Phật Quá khứ, Hiện tại và Tương lai, thể hiện triết lý về thời gian và không gian thế giới. Gọi là Tam Thiên thế giới (ba nghìn thế giới) đó là một nghìn thế giới quá khứ, một nghìn thế giới hiện tại và một nghìn thế giới tương lai. Trong đó, Phật A Di đà đại diện cho thế giới quá khứ, Phật Thích Ca đại diện cho thế giới hiện tại. Phật Di Lặc đại diện cho thế giới tương lai. Cũng có thuyết giải thích Phật Tam Thế tượng trưng cho tất cả các vị Phật, nên được đặt thờ ở trung tâm cao nhất của điện Phật. Bộ ba tượng tam thế có kích thước bằng nhau ( cao khoảng 1,30 m) và hình dáng giống nhau, cả ba pho đều ngồi bán kiết trên toà sen, nhưng tay trong tư thế khác nhau. Tượng có sọ nở, tóc soắn ốc để lộ Phật đỉnh, tai to dài, khuôn mặt đôn hậu, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, miệng hơi tươi , có vẻ trầm mặc. Tượng mặc áo hai lớp song lại để hở ngực có đeo dây anh lạc. Toàn thân tượng phủ một lớp sơn cánh gián. Đài sen phía dưới nhiều cánh nở rộ, mặt ngoài mỗi cánh sen có hình một bông hoa cánh tròn cân xứng, khác hẳn với những cánh sen của lớp tượng phía dưới có văn hoa “móc dây”. Căn cứ vào phong cách tạo dáng, hoa vãn, cũng như nội dung văn bia của chùa thì ba pho Tam Thế này có niên đại vào khoảng thế kỷ XVII, trước thời điểm trùng tu chùa Hưng Sơn.

Hành lang phải của Thượng điện là tượng Quan Âm tống tử, được tạc là một phụ nữ có khuôn mặt đẹp đang ngồi hai tay bế một đứa bé. Toàn thân tượng không có hoa văn nhưng căn cứ vào phong cách tạo dáng thì đây là pho tượng có niên đại khoảng thế kỷ XIX .

Góc hành lang trái của Thượng điện là tượng Trấn Vũ, được tạc ở tư thế ngồi trên ngai chạm rồng, mặc áo quan võ chạm nổi hoa văn rồng mây nét mác trước ngực và văn hoa lá cách điệu trên áo, chân phải dẫm lên con rùa, chân trái chống gối , tay phải cầm kiếm chống xuống, tay trái để trên đùi trái. Tượng có thân hình rắn trắc, khuôn mặt vuông vức, cương nghị thể hiện sắc thái ỉà vị tướng nhà trời trấn giữ cửa Phật, trừ ma đuổi quỷ. Căn cứ vào phong cách tạo tượng và hoa văn trên áo mũ tượng thì đây là pho tượng có niên đại khoảng thế kỷ XVIII.

Phía dưới có 2 pho tượng nhỏ (cao khoảng 0,40 m) thuộc tượng Tứ Trấn, đầu đội mũ kim khôi, mặc áo giáp trụ có đai và dây lưng, tay phải cầm đốc kiếm trong tư thế rút ra, tay trái chống nách, trông oai nghiêm đường vệ.

Có điều đặc biệt, trong kiến trúc của Thượng điện hai bên hành lang có vị trí để bày tượng Thập Điện Diêm Vương, nhưng lại không thấy một pho nào mà thay vào đó là tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và một sô’ pho tượng nhỏ (khoảng 40 cm) như tượng Tuyết Sơn, tượng Di Lặc … (những pho tượng nhỏ này do dân địa phương mới đem vào cung tiến) và là chỗ của hai pho tượng Hậu Phật được vãn bia của chùa nói đến. Tấm bia đá này có tên “Phụng sự hậu Phật bi ký”, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712) cho biết hai Hậu Phật này có tên huý là Đỗ Thị Điều và Lê Thị Khuông là vợ con ông Tham chính giầu có danh gia vọng tộc, quê ở xã Xích Sơn (Yên Dũng, Bắc Giang), đã đem tiền của ban cho dân nghèo, cồng đức cho xã Viêm Xá 150 quan tiền để tu dựng chùa và được bầu làm Hậu Phật, thờ ở bên trái thượng điện chùa Hưng Sơn.

Theo một số nhà nghiên cứu tượng Phật cổ Việt Nam thì tượng Thập điện Diêm Vương là lớp tượng muộn . Vì vậy, theo chúng tôi chùa Viêm Xá trước kia không có tượng Thập Điện Diêm Vương là do dân không tạo tác vì hoàn cảnh sau này chiến tranh, lụt lội liên miên mà không có điều kiện trùng tu chùa, cũng như tạo tác thêm tượng Phật.

Về hai pho tượng Hậu Phật trên, hiện nay được giữ ở hành làng Thượng điện, bên phải là tượng “Hậu trẻ” và bên trái là tượng “Hậu già” Tượng Hậu trẻ cao 0,70 m được tạo hình là một người đàn bà trẻ đẹp, ngồi xếp bằng hai tay dấu trong vạt áo thụng trùm phủ trên đùi. Tượng đầu đội mũ được chạm nổi văn hình chim phượng ở giữa và những nét văn mây mác xung quanh, tai to dài, mặt đầy đặn phúc hậu, mũi cao đầy, lông mày lá liễu, đôi mắt nhìn hiền từ, cổ ba ngấn đeo một vòng trang sức có nhiều hạt, giữa ngực có chạm nổi hình rồng, phía dưới có đai. Tất cả những nét trang trí trên tượng đã thể hiện đây là một người đàn bà quyền quý cao sang nhưng đầy lòng từ bi, nhân hậu. Còn tượng Hậu già cao 0,72m, được thể hiện là người già có khuôn mặt đẹp phúc hậu, ngồi xếp bằng hai tay dấu trong vạt áo trên dùi. Tượng đầu cao trọc, hai tai to dài, mũi cao đầy, lông mày cong, đôi mắt nhìn hiền từ, miệng hơi mím trầm lặng, cổ ba ngấn, áo cà sa phủ kín người với nhiều lớp sóng áo chảy nuột mềm mại .

Ngoài Tiền đường của chùa là nơi đặt tượng Đức Ông. Hộ Pháp, Đức Thánh Hiền và bên hành lang tay phải là 4 pho tượng “Hậu chùa”.

Tượng Đức Ông cao 1,70 m, được tạo hình là một võ quan oai nghiêm đường vệ ngồi trong ngai chạm rồng. Đầu đội mũ có văn mây lửa, áo quan võ có đai, trên ngực chạm nổi hình mã hoá long với những nét mây mác, tay phải cầm kiếm, tay trái để trên đùi. Tượng có khuôn mặt oai nghiêm, cương nghị. Bệ tượng phía dưới cao 0,30 m chạm nổi những hình rồng lớn với những cụm mây mác bay lên ngùn ngụt. Toàn bộ những nét hoa văn trên tượng và bệ tượng đã cho biết đấy là tượng của thế kỷ XV

Các pho tượng “Hậu Chùa” ngồi thành dãy bên phải toà tiền đường là 4 tác phẩm tượng tròn chân dung với những nét tả thực khá đặc sắc, mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Cụ thể như sau:

+ Pho tượng Hậu cao 0,50 m được thể hiện là một phụ nữ ngoài 50 tuổi, khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, đầu chít khăn, ngôi xếp bằng, hai tay khoanh đặt trước lòng đỡ một cái bát. Tượng mặc áo phủ kín thân với nhiều nếp sóng áo.

+ Pho tượng Hậu cao 0,7 m được thể hiện là một bà già đầu đội mũ, má hơi hóp, đôi mắt nhìn đầy suy tư, miệng mím lại, áo phủ kín thân, cổ đeo tràng hạt chảy xuống tận đùi hai tay để úp trên hai đùi.

+ Pho tượng cao 0,75 m, được thể hiện là một phụ nữ còn trẻ với khuôn mặt căng bầu bĩnh, đôi mắt xếch nhìn xuống, lông mày cong, mũi cao đầy, miệng nhỏ xinh, cổ cao ba ngấn, áo khoác ngoài chùm phủ kín thân, ngồi một chân khoanh, một chân chống, hai tay đang lần tràng hạt trước đùi.

+ Pho tượng Hậu cao 0,73 m, được thể hiện là một bà già, đầu đội mũ, khuôn mặt gầy, má hóp, da mặt và da cổ nhăn nheo, đôi mày nhíu lại mắt nhìn đầy ưu tư, ngồi thiền định hai tay đặt lên nhau trên lòng đùi, áo phủ kín thân với nhiều nếp sóng áo, tràng hạt đeo ở cổ chảy xuống tận đùi.

Hậu đường của chùa là nơi thờ “Tổ chùa”, hiện còn 6 pho tượng gỗ cổ và cũng là những tác phẩm điêu khấc tượng chân dung khá đặc sắc, có niên đại thuộc thế kỷ XVIII.

Tượng chùa Hưng Sơn còn bảo lưu đến ngày nay là những tác phẩm điêu khắc tượng tròn của nhiều thời (từ thế kỷ XVII đến XIX), mặc dù đã trải nhiều biến cố như thiên tai, chiến tranh …làm một số pho tượng đã bị mất hoặc hỏng, song tất cả những pho tượng hiện còn ở đây đều là những tác phẩm điêu khắc đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc của hai thời Lê – Nguyễn và nền nghệ thuật điêu khắc truyền thống Việt Nam. Sau nhiều lần trùng tu ngày nay những pho tượng cũ và một số pho tượng có phần mục nát đã được nhân dân và nhà chùa trùng tu và tu bổ giữ tối đa những gì là cổ, hạn chế thay mới trừ khi hỏng không thể sửa. Đây chính là những di sản văn hoá vô giá của làng Viêm Xá.

Cùng với hệ thống tượng thờ cổ quý, chùa Hưng Sơn còn bảo lưu được những cổ vật quý giá khác như bia đá, đại tự, câu đối, đồ thờ tự, hệ thống khung nhà Tam Bảo cũ, một số ván khắc kinh cổ.

Những tấm bia đá có niên đại vào thế kỷ thứ XVII – XVIII đã cung cấp nhiều thông tin về lịch sử văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo ở địa phương, đặc biệt là thông tin vể thời điểm trùng tu chùa Hưng Sơn với quy mô rất lớn vào thế kỷ XVIII (1772 )và đến 1777 thì dựng bia cũng như việc tạo các pho tượng Phật như ADi Đà lớn, Già Lam, Anan… ở đây, đồng thời còn cho biết đây là một trung tâm Thiền Phật rất lớn của vùng này.

 

 

Các bia này như sau :

  1. Bia hai mặt có kích thước (93cm X 56cm X 17cm), trán bia mặt trước chạm “lá hoá phượng chầu nguyệt”, trán bia mật sau chạm “lá hoá long chầu nguyệt”, tên bia mặt trước “Hưng Sơn Thiền tự’, mặt sau “Bản xã công đức Quý Hợi niên tạo thạch”, niên đại “Chính Hòa năm thứ 4” (1683).
  2. Bia hai mặt có kích thước (96cm X 56cm X 17 cm), trán bia chạm ‘lá hoá long chẩu nguyệt”, diềm bia chạm hoa sen dây và cúc dây cách điệu, tên bia mặt trước “Hưng Sơn Thiền T mặt sau “ Trung Hưng Bi Ký” niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 38 (1777)

Ngoài ra, còn có một bản dịch của một bia đá nữa của chùa do Viện Nghiên cứu Hán Nôm dập, dịch vào năm 1990. Song không hiểu vì lý do gì mà tấm bia này hiện nay không thấy đâu. Bia có tên “Phụng sự hậu Phật bi kýdựng năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712), nói về việc tạc tượng hai bà Hậu Phật là Đỗ Thị Điều và Lê Thị Khuông như đã trình bày.

Chùa Hưng Sơn có một cổ vật quý khác nhưng nay đã bị mất. Đó là quả chuông “ Tân tạo tường chú Hưng Sơn tự chung”, đúc ngày lành, tháng 3 năm Phúc Thái thứ 7 (1649), bản dập hiện còn lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bài văn trên chuông cho biết, chùa Hưng Sơn từ lâu đã là danh lam cổ tự xứ Kinh Bắc và là một ngôi chùa lớn. Vị Hội chủ phụng Phật người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là thôn Thịnh Liệt, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh trì, Hà Nội) sống ở Trung đồ Vương phủ nội, Cung tần Lê Thị Ngọc Liêm, hiệu Diệu Thái và tăng nữ xuất gia trụ trì chùa Hưng Sơn là Đỗ Thị Ngọc Cảnh hiệu Diệu Như cùng bỏ tiền ra đúc chuông quả chuông này.

Chùa còn lưu được những bức đại tự, câu đối cổ và nhiều đồ thờ tự cổ quý khác có niên đại của hai thời Lê- Nguyễn. Đặc biệt là chùa còn bảo lưu được hơn chục tấm ván in sách kinh Phật.

Chùa Hưng Sơn tự là ngôi chùa cổ được dựng lâu đời hợp thành với đình đền và đền giếng thành một quần thể di tích văn hóa truyền thống của làng Diềm, ngôi chùa này hội tụ những tinh tú của người Việt cũng như người dân Viêm Xá, khác với một số ngôi chùa khác chỉ thờ phật, chùa Hưng Sơn thuộc khu Viêm Xá còn thờ thánh, theo người dân nơi đây vị thánh được thờ là thánh Giáp Ngọ là một trong số 5 vị thành hoàng được thờ trung trong đình Diềm. Do ông có tính nóng nảy nên được đưa vào chùa để nghe chuông chùa và kinh phật để bớt nóng nảy.

Chùa Diềm mang giá trị tinh thần lớn đối với người dân nơi đây, chùa là nơi hội tụ và kết tinh nét văn hóa của người Việt nói chung và tính quây quần văn hóa truyền thống của dân tộc, ở đâu có người Việt ở nơi đó có chùa. Chùa Diềm còn thể hiện sự doàn kết trong giá trị văn hóa qua những tấm bia đá, ghi công đức và quả chuông đúc năm 1649, điều đó cho thấy giá trị cao cả của đạo Phật đã được ngấm vào máu thịt của người dân Việt và người dân Viêm Xá ngay từ đầu công nguyên, vì sự gần gũi mà tinh tế, sâu sắc mà đạo đức, nguyên tắc nhân quả như một từ không thể thiếu khi nói về đạo Phật.  Làm ta tự thấy mình phải vị tha hơn và vì mọi người hơn, giảm tham sân si và vị tha bố thí nhiều hơn, tinh thần đó ăn sâu trong mọi tầng lớp dân Việt khi đạo Phật mới thâm nhập vào nước ta, nó phù hợp với nhiều lĩnh vực đời sống và con người nơi đây. Đạo Phật mang tính nhân loại và ngày nay con người vẫn theo vì sự tiến bộ đó./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tín Ngưỡng Thờ Tự Tại Chùa Diềm

Tác giả: Nguyễn Quang Khải[9] 

Chùa Diềm có tên chữ là Hưng Sơn tự thuộc khu Viêm Xá phường Hoà Long TP Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh là ngôi chùa cổ, được xây dựng từ lâu đời, được trùng tu với quy mô lớn vào thời Lê, toạ lạc trên vị trí đẹp. Nằm trong quần thể di tích đền, giếng,… và là nơi phát tích của truyền thống hát dân ca Quan họ có từ lâu đời của đất Bắc Ninh, chùa Hưng Sơn góp phần làm nên đặc điểm văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh.  Tìm hiểu chùa Hưng Sơn có thể từ nhiều phương diện khác nhau. Trong bài này, chúng tôi xin đề cập đến tín ngưỡng thờ tự của ngôi chùa.

Về đại thể, tín ngưỡng thờ tự của chùa Hưng Sơn có sự tương đồng với các ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam, nhưng đi sâu tìm hiểu cũng có những đặc điểm riêng.

  1. Tín ngưỡng thờ ở toà Tam bảo

Tín ngưỡng thờ tự ở toà Tam bảo chùa Hưng Sơn được thể hiện ở ba cum tượng: ở chính giữa và hai bên sát tường.

1.1. Tín ngưỡng thờ ở chính giữa toà Tam bảo

Các pho tượng được được thờ ở chính giữa toà Tam bảo là các vị Phật, Bồ tát và được bố trí ở thành 6 hàng.

Ở hàng cao nhất, sát tường là ba pho tượng Tam thế. Đó là A Di Đà phật (toạ ở chính giữa) và hai bên là Thích ca Mâu ni Phật và Di Lặc Phật. Ở hàng thứ hai, có duy nhất một pho tượng đức A Di Đà Phật. Hàng thứ 3, ở hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Hàng thứ 4 có duy nhất tượng đức Phật thích ca Mâu Ni đang dơ bông sen lên. Hàng thứ 5 có toà Cửu long một dây và hai bên có hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Hàng thứ 6: ở giữa là Quan âm Chuẩn Đề, hai bên là A nan và Ca Diếp.

Xin giới thiệu sơ lược hành trạng của các vị như sau:

A Di Đà Phật:

Theo Từ điển Phật học Hán- Việt của phân Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội, (NXB KHXH, 2004), Trung Quốc dịch là Vô Lượng thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật. Theo như lời đức Thích ca giảng trong kinh A Di Đà thì cõi của đức Phật A Di Đà là về Tây, cách cõi ta bà chúng ta 10 vạn ức cõi Phật. Cõi ấy gọi là Cực Lạc quốc. Đức A Di Đà hào quang sáng suốt vô lượng, chiếu tới các cõi của thập phương mà không bị vật gì ngăn che. Đời sống của ngài và của chư Phật, chư Thánh trong nước của ngài dài vô lượng vô biên, đến triệu ức kiếp. Ai muốn vãng sinh đến nước Cực lạc của đức Phật A Di Đà thì nên phát tâm trì niệm hồng danh ngài, không sao nhãng. Vì vậy, sau này mới thịnh hành phái Tịnh độ của các nhà tu trì tin đức Phật A Di Đà. Ngài thường hiện thân đi tiếp dẫn chúng sinh. Đi theo ngài có hai vị Bồ tát là Đại Thế Chí và Quan Thế Âm. Bộ ba này thường được gọi là Di Đà tam tôn.

– Thích ca Mâu ni Phật

Căn cứ kinh điển Phật giáo, xin trình bày tóm tắt hành trạng của đức Phật Thích Ca như sau:.

Thích Ca Mâu Ni, tên tiếng Phạn là Sãkya- muni, tiếng Pa li là Sakya- muni, ý là Thánh nhân của tộc Thích Ca sinh ra, đó là vị giáo chủ của Phật giáo. Là thái tử của Tịnh Phạn vương (Phạn văn là Suddho- dana) của thành Ca Tỳ La Vệ (Phạn văn là Kapila- vatsu) ở Bắc Ấn Độ. Thành đó ngày nay ở gần Nê Pal. Diện tích cả nước là 320 dặm vuông, là thuộc địa của nước Kiều Tát La (Phạn văn là Kôsala). Thời kỳ đó, Bắc Ấn Độ thực hành chế độ cộng hoà quí tộc, cả nước chia thành 10 tiểu thành bang, do trong thành tuyển ra 10 người có thế lực cao nhất làm chủ trong thành lãnh đạo. Tịnh Phạn vương tức là lãnh tụ nước cộng hoà đương thời. Bà mẹ Maza phu nhân (Phạn văn là Mãyã) là con gái của chủ thành Lợi Tộc Thiên Tý nước láng giềng (Phạn văn là Devadaha).

Ma za phu nhân trước khi sắp đẻ, theo tập tục, trở về nhà mẹ ở thành Thiên Tý đợi ngày sinh. Giữa đường, bà đến vườn Lâm Tỳ Ni (Phạn văn là Lumbini) nghỉ ngơi một chút và đã đẻ thái tử dưới gốc cây vô ưu (Phạn văn là asoka), tức là Thích Ca Mâu Ni. Theo sách Tu hành bản khởi kinh, quyển thượng, phẩm Giáng thân thì khi Thích Ca đản sinh, ngài đi 7 bước, giơ tay nói “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn; tam giới giai khổ, ngô đương an chi”.

Sau khi thái tử hoàn cung, ngài được đặt tên là Tất Đạt Đa (Phạn văn là Siddhãrtha, Pa li văn là Sidd =hatha), dịch ý là: Nhất thiết Nghĩa thành, Nhất thiết Sự thành, Tài cát, Cát tài, Thành lợi, Nghiệm sự, Nghiệm nghĩa). Sau khi sinh con được 7 ngày, Ma za phu nhân qua đời. Tất Đạt Đa được bà dì ruột là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Phạn văn là Mahãprajãpati) nuôi dưỡng thành người. Theo sách Phật bản hạnh tập kinh, quyển 11, phẩm Tập học kỹ nghệ, sách Hữu bộ Tỳ nại da phá tăng sự, quyển 3 thì thái tử lúc thiếu thời đã theo người Bà la môn Tỳ Xa Mật Đa La (Phạn văn là Visvamitra) học tập nghề văn; theo Sản Đề Đề Bà học tập võ nghệ, đều rất thông hiểu. Khi lớn lên, lấy con gái vua Thiện Giác ở thành Thiên Tý (Phạn văn là Supraduuddha) là Da Thâu Đà Đà La (Phạn văn là Yasodharã) làm vợ, sinh con trai là La Hầu La (Phạn văn là Rãhula).

Theo sách Tu hành bản khởi kinh, quyển hạ, phẩm Du quan, thì thái tử Tất Đạt Đa hồi nhỏ thích trầm tĩnh tư duy, vì vậy mà xuất hiện tượng tư duy. Theo sách đó, thái tử thường ra 4 cửa thành chơi, thấy được các hình ảnh lão, bệnh, tử của sa môn, cảm động sâu sắc về nỗi thống khổ và vô thường của cuộc sống con người, liền nảy ra ý xuất gia tu đạo. Vào năm 29 tuổi (có thuyết nói là năm 19 tuổi), nửa đêm, thái tử ra khỏi vương cung, tự bỏ mũ áo làm sa môn. Ban đầu đến thỉnh giáo Bạt Già Bà (Phạn văn là Bhãrgava) nước Tỳ Xá ly (Phạn văn là Vai sãli) cầu đạo, lại đến thành Vương Xá (Phạn văn là Rajagrha) thụ giáo vị hiền giả A La La Ca Lam (Phạn văn là ãrãda- kãlãma), Úc Đà Ca La Ma Tử (Phạn văn là Udraka- rãmaputtra) để học đạo giải thoát, bèn đến rừng Khổ Hạnh thôn Ưu Lâu Tần La (Phạn văn là U ruvilva) phía Nam thôn Già Da (Phạn văn là Gaỹa) nước Ma Kiệt Đà (Phạn văn là Magdha) bắt đầu tu khổ hạnh 6 năm. Tịnh Phạn vương có phái 5 vị thị giả đến cùng tu. Trong thời kỳ tu khổ hạnh, mỗi ngày Tất Đạt Đa ăn một hạt vừng một hạt kê, tuy hình thể gầy khô, tâm thân suy kiệt, mà cuối cùng vẫn không thành đạo. Ngài liền ngộ ra rằng: tu khổ hạnh không phải là cách đắc đạo, bèn ra khỏi rừng Khổ Hạnh. Lúc đó, 5 vị thị giả cùng tu với ngài cho rằng thái tử đã đánh mất đạo tâm, bèn bỏ ngài mà đi.

Tất Đạt Đa sau khi bỏ tu khổ hạnh, đến sông Ni Liên Thiền (Phạn văn là Nai ranjana) tắm rửa và tiếp nhận  của cô gái chăn cừu cúng dàng một bát sữa dê. Sau khi sức khoẻ được khôi phục, ngài đến dưới cây tất bát la thôn Già Da, lấy cỏ cát tường kết kim cương toà, quay về hướng Đông mà ngồi kết già phu, ngồi ngay ngắn, niệm chính niệm, tĩnh tâm mặc chiếu, suy nghĩ về con đường giải thoát. Sau 49 ngày, vào lúc nửa đêm ngày mùng 8 tháng 12, bỗng nhiên đại ngộ, năm đó ngài  35 tuổi (có thuyết nói là 30 tuổi). Do nhân duyên đó, bèn gọi cây tất bát la là cây Bồ Đề (Phạn văn là bodhivrksa).

Thích Ca Mâu Ni đã từng trải qua hàng ma mà thành đạo. Các sách: Trung A hàm kinh, quyển 56, La ma kinh, Tu hành bản khởi kinh, quyển hạ, phẩm Lục niên cần khổ, Quá khứ hiện tại nhân duyên kinh, quyển 3, Phật bản hạnh tập kinh, Ngũ phận luật, quyển 15, đều có ghi chép tường tận tỷ mỷ. Sau khi thành đạo, ngài đến vườn Lộc Dã (Phạn văn là Mrgadãva) thành Ba La Nại (Phạn văn là Bãrãnasĩ) đầu tiên giáo hoá cho 5 vị thị giả cùng tu khổ hạnh. Đó là thời kỳ đầu chuyển pháp luân. 5 vị thị giả tức là 5 vị tỷ khưu có tên của tăng đoàn Phật giáo cổ xưa nhất: A Lặc Kiều Trần Như (Phạn văn là Anãta- Kanndinya), Bạt Đề (Phạn văn là Bhadrika), Bà Sa Ba (Phạn văn là Bãspa), Ma Hà Nam (Phạn văn là Mahãnãma), A Thuyết Thị (Phạn văn là Asvajit). Các sách Tạp A hàm kinh, quyển 15, Chuyển pháp luân kinh, Ngũ phận luật, quyển 15, Hữu bộ Tỳ nại da tạp sự, quyển 39 có nói đến các sự tích có liên quan đến thời kỳ chuyển pháp luân đầu tiên của Thích Ca Mâu Ni là sự diễn giảng về Tứ thánh đế (còn gọi là Tứ diệu đế), Bát chính đạo. Sau đó, Thích Ca Mâu Ni cũng tự xưng là Như Lai (Phạn văn là Tathãgata). Ngữ nghĩa của chữ Như Lai có rất nhiều, thông thường chỉ “con đường đưa đến cái thực, mà cái thiện đưa đến thế giới Sa bà này”.

Sau thời kỳ đầu chuyển pháp luân, Thích Ca Mâu Ni đến nước Ma Kiệt Đà hoá độ ba anh em Ưu Lâu Tần La Ca Hiệp (Phạn văn là Uruvil vã- kãsyapa), Na Đề Ca Hiệp (Phạn văn là Nadi- kãsya- pa), Già Na Ca Hiệp (Phạn văn là Gayã- kãsypa) của Bái hoả giáo, đệ tử có đến nghìn người. Lại hoá độ cho sáu vị sư ngoại đạo của Quỷ biện phái Xá Lợi Phất  (Phạn văn là Sãriputra) và Mục Kiền Liên (Pa li văn là Moggallãmna), sau này, hai vị đó trở thành hai vị cao tăng thân tín của đức Phật. Lại đến thành Vương Xá qui y cho quốc vương Tần Bà Sa La vương (Phạn văn là Bimbisãra), lại được vị trưởng giả Ca Lan Đà (Phạn văn là Kalanda) hiến cho vườn trúc để xây dựng tinh xá. Đến đây, vị thế của giáo đoàn Phật giáo ngày càng tỏ ra có nhiều tiến triển.

Sau đó, Thích Ca Mâu Ni có một lần trở lại cố hương là thành Ca Tỳ La Vệ, qui y cho mọi người, như mẹ kế Nan Đà, con trai là La Hầu La, em trai là Đề Bà Đạt Đa, Phục Bà Ly, tất cả đều cắt tóc bỏ áo xuất gia. Ngài lại đến thuyết pháp cho trưởng giả Tu Đạt (Phạn văn là Sudatta) thành Xá Vệ (Phạn văn là Sravastĩ). Trưởng giả cùng thái tử Kỳ Đà (Phạn văn là Jeta) đã lấy khu vườn rừng mà mình được tặng để hiến cho đức Phật để xây dựng tinh xá, cúng dàng lâu dài để an trụ hoằng pháp. Quốc vương thành Xá Vệ là Ba Kỳ Nặc vương (Phạn văn là Prasenajit) đến đó cũng qui y đức Phật. Đến khi Tịnh Phạn vương băng hà, Thích Ca Mâu Ni trở về nước một lần nữa. Sau, bà dì ruột là Ba Xa Ba Đề, Phi Da Thâu Đà La cũng cắt tóc xuất gia, đó là những tỷ khưu ni đầu tiên của giáo đoàn, Ba Xa Ba Đề tức là vị tỷ khưu ni thứ nhất của giáo đoàn Phật giáo. Sau đó, đức Phật đi khắp Ấn Độ để thuyết pháp, quảng bá giáo pháp, không kể sang hèn, nam nữ, ngài đều giáo hoá cả. Giáo pháp của ngài đã có ảnh hưởng rất lớn đến văn hoá và tôn giáo Ấn Độ.

Sau 44 năm Thích Ca Mâu Ni thành đạo, ngài về cư trụ ở vùng thành Vương Xá và thành Xá Vệ. Theo sách Tăng nhất A hàm kinh, quyển 26; Nghĩa túc kinh, quyển hạ; Xuất diệu kinh, quyển 16; Tỳ ni mẫu kinh, quyển 4; Ngũ phận luật; Tứ phận luật; Hữu bộ Tỳ Nại da phá tăng sự, Thiện kiến Tỳ Bà sa thì Đề Bà Đạt Đa muốn ép đức Phật và tăng đoàn nhượng lại, nhưng ý muốn đó không được toại nguyện, bèn có thủ đoạn phá tăng đoàn và hại Phật. Khi Lưu Ly vương là con của vua Ba Tư Nặc lên kế vị, đã đánh phá thành Ca Tỳ La Vệ là cố hương của đức Phật, diệt họ Thích Ca. Khi đó, Mục Kiền Liên và mọi người khuyên Thích Ca Mâu Ni nên tiếp nhận đệ tử.

Năm cuối cùng đức Phật tại thế, ngài đi khỏi nước Ma Kiệt Đà, đến bờ Bắc sông Hằng, đi qua nước Tỳ Xá Ly (Phạn văn là Vaislĩ), đến thành Ba Bà (Phạn văn là Pãva) nhận sự cúng dàng tượng sắt của Thuần Đà (Phạn văn là Cunda), nhân vì ăn Tô ca lạp ma đạt phạt (Pa li văn là Sũkaramaddava- tức là mộc nhĩ cây chiên đàn) mà mắc bệnh. Trước lúc lâm chung, Câu Tôn Hà (Pa ni văn là kakuttha) tắm rửa rất cẩn thận, lại đưa ngài đến rừng Sa môn Song Lâm thành Câu Thi Na La (Phạn văn là Kusinagra) nằm theo thế cát tường, đầu hướng Bắc mặt hướng Tây. Nửa đêm, đức Phật hướng dẫn dạy bảo Phật tử làm những việc hậu sự, rồi sau đó bình tĩnh nhập diệt, trụ thế 80 tuổi.

Di hài của Thích Ca Mâu Ni Phật ban đầu đặt ở chùa Thiên Quan (Phạn văn là Makutabandhana- cetiya) của tộc Mạt La để làm việc mai táng. Sau đó, tám nước là Câu Thi Na kiệt La, Ba Bà, Độ La, La Ma Già, Tỳ Lưu Đề, Ca Ti La, Tỳ Xá Ly, Ma Kiệt Đà thay nhau làm việc cúng tế. Do việc chia di cốt mà nổi lên sự tranh nhau. Sau, trải qua sự điều đình của một người Bà La môn (Pali văn là Dôla) mà một quyết nghị được đưa ra là 8 nước được phân chia di cốt, vị Bà La môn họ Hương được bình xá lị, ai đến chậm thì được bát không, người trong thôn ở gần được tro cháy. Các nước tới tấp xây tháp cúng dàng, những tháp đó còn đến ngày nay tức là 10 tháp của Phật đà xá lợi.

Xem xét sự đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn của Thích Ca Mâu Ni Phật, trong kinh điển, có nhiều sự ghi chép không giống nhau về ngày, tháng, năm cụ thể. Tổng hợp những điều kinh điển đã nói về ngày, tháng đức Phật đản sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, đại thể có 3 thuyết sau:

1- ngày mùng 8 tháng 2,

2- ngày mùng 8 tháng 4

3- ngày 15 tháng 2;

Về ngày, tháng nhập Niết bàn cũng đại thể có 3 thuyết:

1- ngày mùng 8 tháng 2;

2- ngày 15 tháng 2;

3- ngày mùng 8 tháng 8.

Hiện nay, giới Phật học thống nhất là ngày 15 tháng 4 Hạ lịch, nhưng cũng không phản đối việc lấy ngày 8 tháng 4 làm ngày kỷ niệm. Căn cứ vào bốn sự kiện: đản sinh, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn để khắc, vẽ, tạo tượng, tranh Phật, truyện Phật, gọi là bốn việc lớn (tứ đại sự), lấy nơi diễn ra bốn việc lớn, gọi là “Phật giáo tứ đại thánh địa”.

– Di Lặc Phật

Theo Từ điển Phật học Hán- Việt của phân Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội, (NXB KHXH, 2004), Trung Quốc dịch là Từ Thị. Theo kinh Di Lặc thượng sinhDi Lặc hạ sinh, ngài ra đời trong một gia dình Bà la môn. Sau, trở thành đệ tử của Phật, nhập diệt trước đức Phật, lấy thân Bồ tát thuyết pháp cho trời và người. Ngài trụ ở cõi trời Đâu Suất. Theo truyền thuyết, ngài vì muốn thành tựu cho chúng sinh nên từ lúc mới phát tâm đã không ăn thịt. Nhờ nhân duyên đó, ngài có tên là Từ Thị. Đức Thích Ca từng dự báo rằng ngài thọ đến 4000 tuổi (khoảng 56 ức 7000 năm của nhân gian) thì sẽ hạ sinh xuống cõi nhân gian và thành Phật dưới gốc cây Long Hoa, chia thành 3 hội thuyết pháp. Ngài sẽ thay đức Phật thuyết pháp, nên gọi ngài là Bổ Xứ Bồ tát. Đến bây giờ đã đắc quả Phật và gọi là Di Lặc Phật, Di Lặc Như Lai.

– Thích ca sơ sinh

Thích ca sơ sinh được thờ trong tòa Cửu Long. Theo hai tác giả Thích Hạnh Tùy và Thích Thanh Ninh trong Bài trí tượng Phật trong một ngôi chùa tiêu biểu (NXB Văn hóa Thông tin, 2010, tr. 64), sở dĩ gọi là Cửu long vì tòa chạm khắc này được tạc 9 đầu rồng. Theo kinh điển trong Phật giáo thì khi đức Phật đản sinh có 9 con rồng phun nước tắm cho ngài. Ngài vừa ra đời, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất và tuyên ngôn: “Thiên thượng địa hạ, duy nhã độc tôn, tam giới giai khổ, ngô đương an chi” và ngài bước đi 7 bước, mỗi bước đi có bông hoa sen xuất hiện dưới chân ngài.

Việc tạo ra tòa Cửu long (để kỷ niệm sự kiện sự ra đời của đức Phật) và tổ chức nghi lễ tắm Phật được thực hiện là căn cứ vào các bộ kinh: Dục Phật công đức kinh, Mộc dục Phật nghi, Bát nê hoàn hậu quán lạp kinh, Tân Phật dục tượng nghi quỹ.

Toà Cửu long ở chùa Hưng Sơn là toà Cửu long một dây, không tạc chư thiên.

– Phổ Hiền Bồ tát

Theo Từ điển Phật học Hán- Việt của phân Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội, (NXB KHXH, 2004), ngài là 1 trong 4 vị đại Bồ tát của phật giáo Trung Quốc. Cùng với Văn Thù Bồ tát, ngài là hiệp sĩ của đức Phật Thích ca Như Lai, hầu ở bên trái đức Như Lai. Ngài tượng trưng cho phẩm chất lý trí, định tuệ, hành chứng hoàn bị viên mãn. Theo kinh Pháp hoa thì Phổ Hiền cưỡi con voi trắng 6 ngà. Theo kinh Hoa nghiêm, Phổ Hiền nêu 10 hạnh nguyện lớn: kính lễ chư Phật, ca tụng Như Lai, rộng tu cúng dàng, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật tại thế, thường theo Phật học, thuận theo chúng sinh, hồi hướng cho tất cả chúng sinh. 10 hạnh nguyện trên đây cũng là hành nguyện của tất cả các vị Bồ tát.

– Văn Thù Bồ tát

Theo Từ điển Phật học Hán- Việt của phân Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội, (NXB KHXH, 2004), ngài là 1 trong 4 vị đại Bồ tát của Phật giáo Trung Quốc. Cùng với Phổ Hiền Bồ tát, ngài là hiệp sĩ của đức Phật Thích ca Như Lai, hầu ở bên phải đức Như Lai. Kinh Đại nhật gọi là Diệu Cát Thù, kinh Vô lượng thọ, kinh Niết bàn gọi là Diệu Đức, kinh Vô hành gọi là Diệu Thủ,… Trên đỉnh đầu có 5 búi tóc, tượng trưng cho 5 đức lớn của đại Phật, cầm kiếm, cưỡi sư tử tượng trưng cho uy lực mạnh mẽ.

– Đại Thế Chí Bồ tát

Theo kinh Quán vô lượng thọ, vì trí tuệ quang chiếu khắp hết thảy, khiến chúng sinh lìa ba đường ác, được sức mạnh vô thượng, nên gọi vị Bồ tát này là Đại Thế Chí (hoặc Đại Thế, hoặc Thế chí). Theo kinh Bi hoa, một  đời trước, ngài là thái tử Ni ma, con vua Vô Tránh Niệm. Vua gặp Phật Bảo Tạng, phát tâm và giác ngộ chân lý. Thái tử cũng phát tâm tu hành phụng sự Phật Bảo Tạng và các tăng trong 3 tháng, phát nguyện cầu thành Phật đạo. Đức Phật Bảo Tạng thụ ký cho ngài, nói rằng, ngài sẽ là Đại Thế Chí Bồ tát ở cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà. Khi theo đức Phật tiếp dẫn chúng sinh, Đại Thế Chí đứng ở bên phải. Đại Thế Chí Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ.

– Quan Thế Âm Bồ tát

Cũng gọi là Quan âm Bồ tát hoặc Quán Tự tại Bồ tát.

Quan Thế Âm Bồ tát có nghĩa là quan sát thấy âm thanh của người đời gọi tên vị Bồ tát đó mà rủ lòng cứu giúp. Còn Quán thế Tự Tại có nghĩa là quan sát thế giới mà tự tại cứu khổ. Trong Phật giáo có Lục Quan âm (6 Quan âm), Thất Quan âm (7 Quan âm) cho đến Tam thập tam Quan âm (33 Quan âm), nhưng Quan âm được nêu danh thì chỉ có vị Thánh Quan âm trong Lục Quan âm. Theo sách Ngũ đại minh vương thì trước đây dân gian đều gọi là Quan Thế âm. Từ khi nhà Đường thống trị Trung Quốc, vì kỵ húy chữ Thế (Lý Thế Dân) nên từ đó bỏ chữ Thế mà chỉ gọi là Quan âm thôi. Quan Thế âm vốn là nam giới, nhưng theo sách Tuyên Hòa họa phổ thì thấy tượng Quan âm đều do các danh họa Trung Hoa tạo và đều có gương mặt phụ nữ và trang phục phụ nữ. Sở dĩ có chuyện đó, theo sách Thái Bình quảng ký, thì có câu chuyện: phu nhân xinh đẹp của một vị quan bị thần bắt. Gia đình vị quan đó bèn tạc tượng Quan âm để thờ. Ít lâu sau, người nhà đó mơ thấy có một vị tăng đến cứu và hồi tỉnh lại. Từ đó dân gian đều tạc tượng Quan âm có gương mặc, hình thể, quần áo của người phụ nữ xinh đẹp giống như hình tướng của vị phu nhân kia.

– A Nan Đà (gọi tắt là A Nan)

Trung Quốc dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ. Ngài là con vua Hộc Phạn, em Đề bà Đạt Đa, là em thúc bá và cũng là một trong 10 đại đệ tử của đức Phật, sinh vào đêm đức Phật thành đạo. Ngài xuất gia năm 25 tuổi. Ngài A Nan được hầu bên đức Phật 25 năm liền. Theo kinh Trung A hàm đệ bát thị giả kinh, Trí độ luận (quyển 3), A Di Đà kinh Tứ ân sớ (quyển thượng),… trong hội kết tập lần thứ nhất, ngài A Nan đã soạn ra tạng kinh do đức Phật thuyết. Sau khi tổ Ca Diếp tịch, ngài A Nan lên làm tổ thứ hai. Ngài tịch giữa dòng sông Hằng. Xá lợi của ngài được phân ra để thờ ở Tỳ Xá ly và Hoa Thị.

– Ca Diếp (còn gọi là Ca Nhiếp)

Là cách gọi tắt của Ca Diếp Ba. Trung Quốc dịch là Ấm Quang. Sách Huyền ứng âm nghĩa, quyển 24 có giải thích: trong tiếng Phạn, “Ca Diếp” nghĩa là ánh sáng, “ba” là uống. Ca Diếp là một trong 10 đại đệ tử của đức Phật. Ngài cũng là người miệng tụng ra kinh Vệ đà; là một trong 7 vị đại tiên trong thần thoại Ấn Độ. Ngài được thờ ở bên phải đức Phật Thích ca.

– Quan âm Chuẩn Đề

 Quan Âm Chuẩn đề còn gọi là Tôn đề. Chuẩn đề có nghĩa là Thanh tịnh. Ngài còn được gọi là Thiên nhân Thượng phu Quan âm, có thể giáo hóa cho chúng sinh. Thiền tông rất tôn sùng Quan âm Chuẩn đề và coi là một vị tôn giả của Quan Âm bộ. Phái Đông Mật của Nhật Bản coi Chuẩn đề là một trong sáu  vị Quan âm và xếp ngài vào Liên hoa bộ. Chỉ có phái Thai Mật dựa vào sách Thất câu chi Phật mẫu Chuẩn đề kinh là xếp ngài vào hàng Phật mẫu và coi đức Chuẩn đề là một vị tôn giả của Phật bộ. Thông thường, hình tướng của ngài có 3 mặt, 18 tay. Quan âm Chuẩn đề chùa Hưng Sơn có 16 tay.

1.2. Tín ngưỡng thờ ở sát hai tường toà Tam bảo

Sát hai bên toà Tam bảo được bố trí tượng thờ của Bát bộ Kim cương (mỗi bên 4 vị). Sát góc tường phía trong bên tay phải (từ ngoài vào) là pho tượng một vị mặc võ phục, có râu (chưa rõ là ai), bốn vị Kim cương và tượng Ngọc hoàng thượng đế. Ở phía đối diện, ở sát góc tường là tượng Quan âm Thị Kính, tiếp đến là bốn vị Kim cương và ngoài cùng là Phạn Thiên. Các vị Kim Cương đều mặc võ phục, tay cầm khí giới, vẻ mặt dữ tợn. Tám vị Kim cương đó là: Thanh trừ tai Kim cương, Tích độc thần Kim cương, Hoàng tuỳ cầu Kim cương, Bạch tịnh thủy Kim cương, Xích thanh hỏa Kim cương, Định trì tai Kim cương, Tử hiền thần Kim cương, Đại thần lực Kim cương.

Tại sao 8 vị đều có danh hiệu chung là Kim cương? Theo sách Thám huyền ký, quyển 3, Kim cương có nghĩa là rắn và sắc, còn theo quan niệm dân gian thì Kim cương có nghĩa là vật báu, thuần khiết và trong sạch. Các vị Kim cương cũng là những vị thần hộ pháp già lam nên các vị đó cần có phẩm chất cứng rắn, thuần khiết và trong sạch. Ngoài ra, trong dân gian, hàng năm, mọi nhà có làm lễ nhương sao giải hạn. Khi làm lễ này, sau khi thỉnh khoa nghi, người ta tụng kinh Khâm thiên giải ách để cầu trường thọ, phòng hoạn nạn, trừ tai ương. Khi đó, người ta đều phải thỉnh cầu đến 8 vị Kim cương, rằng: “Phụng thỉnh Thanh trừ tai Kim cương giải trừ thiên tinh toán tận chi ách; phụng thỉnh Tích độc thần Kim cương giải trừ mệnh chung số tận chi ách; phụng thỉnh Hoàng tùy cầu Kim cương giải trừ bát tiết nhi thập tử khí xung phạm tử tường chi ách; phụng thỉnh Bạch tịnh thủy Kim cương giải trừ giới thần gia tội chi ách; phụng thỉnh Xích thanh hỏa Kim cương giải trừ sư tăng, đạo sĩ chú phù, yểm đảo chi ách; phụng thỉnh Định trừ tai Kim cương giải trừ lưỡng bạn tương giao chi ách; phụng thỉnh Tử hiền thần Kim cương giải trừ bạo phong tật vũ chi ách; phụng thỉnh Đại thần lực Kim cương giải trừ sơn lâm xuyên trạch, xà thương hổ giảo chi ách.

Theo sách Diên Quang tán, các vị Kim cương được mời đến để trấn đàn, xua đuổi các sao xấu, làm cho đàn tràng được thiết lập tại các chùa hay ở một nơi nào đó được thanh tịnh yên bình nhằm đảm bảo cho cuộc lễ được thành công tốt đẹp.

Tượng Ngọc hoàng thượng đế và tượng Phạn vương đội mũ bình thiên, mặc sắc phục màu vàng, tay cầm hốt.

-Tượng Quan Âm Thị Kính. Đó là hình tượng người phụ nữ bế đứa trẻ. Về tín ngưỡng thờ Quan Âm Thị Kính ở Việt Nam, xưa nay, người ta dựa vào sự tích Tiểu Kính Tâm. Xin tóm tắt sự tích này như sau:

Mãng Ông ở nước Cao Ly có con gái là Thị Kính đến tuổi lấy chồng, song chưa gả cho ai. Thiện Sĩ, học trò, dòng dõi thi thư, đến xin làm rể. Ông bằng lòng cho họ nên vợ nên chồng. Ở nhà, Thiện Sĩ chăm chỉ học bài, Thị Kính ngồi bên cạnh miệt mài vá may. Đến đêm khuya chàng mệt, ngả lưng rồi ngủ. Nhìn cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, sẵn có con dao sắc, nàng cầm lấy, định dùng để xén sợi râu ấy đi. Bất ngờ Thiện Sĩ choàng tỉnh, thấy thế gạt tay vợ, đứng dậy hét toáng lên thất thần. Mẹ chồng chạy vào, nghe con trai kể, tưởng là con dâu định giết chồng, bèn mắng chửi và đuổi nàng về nhà cha mẹ đẻ. Nàng nghĩ thương thân xót phận đành thay dạng nam nhi, xin vào chùa đi tu, được sư thầy nhận độ cho làm tiểu, đặt pháp danh là Kính Tâm.

Trong làng ấy có một người tên là Thị Mầu, là con của một phú ông, thấy tiểu Kính Tâm đẹp người tốt nết, liền tìm mọi cách quyến rũ. Bị cự tuyệt, Thị Mầu thất tình về nhà dan díu với anh Nô, người làm công cho nhà mình. Phú ông bắt gặp. Sợ mang tiếng với dân làng hàng xóm, ông bèn cho anh Nô một ít tiền và đuổi anh ta ra khỏi làng.

Thị Mầu mang thai bị làng bắt vạ và bị gọi ra đình tra hỏi. Thị liền đổ cho Kính Tâm. Làng mời sư thầy và tiểu Kính Tâm đối chất. Tiểu một mực kêu oan, nhưng Mầu cứ đổ riệt, Kính Tâm bị làng đem ra tra tấn, nhưng Kỉnh Tâm vẫn một mực kêu oan. Sư thầy động mối từ tâm, đứng ra xin bảo lãnh cho trò để đem về khuyên nhủ dạy răn.

Thị Mầu sinh con mang trả nhà chùa. Tiểu Kính Tâm nhớ câu Phật dạy “Cứu nhất nhân đắc kì vạn phúc” nên ẵm về nuôi. Hàng ngày tiểu Kính Tâm bế trẻ đi khắp nơi xin sữa nuôi dưỡng. Ròng rã 3 năm, sức tàn lực kiệt, tiểu viết thư để lại cho cha mẹ rồi hoá. Khi tắm rửa thi hài, mọi người mới hay Kính Tâm là gái. Nhà chùa lập đàn giải oan để cho nàng được siêu sinh tịnh độ…

Trong lúc hỏa thiêu, mọi người đều trông thấy một vầng hào quang ngũ sắc trên bầu trời, và trên vầng hào quang đó là một toà sen nhiều cánh có hình ảnh Bồ tát Kính Tâm.

  1. Tín ngưỡng thờ tự ở toà Tiền đường

Toà Tiền đường chùa Hưng Sơn có 7 gian. Ở đó có thờ hai vị Hộ Pháp, đức Thánh Hiền, đức Địa tạng vương Bồ tát và đức Chúa Ông.

– Hai vị Hộ Pháp:

Cạnh hai gian bên có tượng hai vị vị Hộ Pháp. Theo quan niệm dân gian, một vị được gọi là Khuyến Thiện, một vị gọi là Trừng Ác, cả hai vị đều mặc giáp trụ, cưỡi trên mình sư tử, tư thế oai phong. Ngài Khuyến Thiện có gương mặt trắng, tay cầm viên ngọc; ngài Trừng Ác mặt đỏ, tay cầm thanh đao. Thực ra, theo Kim cương thừa, thiện và ác là hai mặt đối lập luôn tồn tại trong mỗi con người, mỗi sự vật. Tu hành là để trừ bỏ dần cái ác, gia tăng thêm cái thiện.

– Đức Thánh Hiền:

Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Hiền trong chùa có xuất xứ từ sách Phật thuyết cứu bạt diệm khẩu nga quỉ kinh (gọi tắt là Diệm khẩu nga quỉ kinh) và các khoa nghi Diệm khẩu nghi quỹ kinh, Diệm khẩu thí thực nghi. Theo các sách này, vào thời Tống (thế kỷ IX), trên núi Mông Sơn châu Nhã An tỉnh Tứ Xuyên, pháp sư Cam Lộ soạn ra khoa nghi Cứu diện nhiên nga quỉ kinh,  Du già diệm khẩu thí thực nghi. Ở Trung Quốc, tín ngưỡng thờ đức Thánh Hiền trong chùa có từ đó. Đức Thánh Hiền có tư thế ngồi trên ngai, đầu đội mũ thất Phật, dáng vẻ từ bi, tay phải làm phép thí thực, tay trái cầm chén cháo.

Đức  A Nan chùa Hưng Sơn; Ảnh: Trần Thành, 2024

 

Tín ngưỡng thờ đức Thánh Hiền trong chùa là để giúp Phật tử hành trì hạnh tài thí trong “tứ vô úy thí” để cứu khổ cứu nạn về đói khát cho chúng sinh bị hoạn nạn trong thiên tai địch họa và những người không may mắn khác, thực hành bi nguyện độ sinh.

– Địa Tạng Bồ tát

Ngài ở cõi trời Đao Lợi, được đức Thích ca Như Lai phó chúc. Mỗi ngày vào buổi sáng nhập Hằng sa thiền định, quan sát các căn cơ của chúng sinh. Ngài là vị Bồ tát đại từ đại bi giữa hai thế hệ Phật, xuất hiện vào thời gian chưa có đức Phật Thích ca ra đời. Ngài giáo hóa cho chúng sinh đang sống trong lục đạo nhẫn nhịn an nhiên bất động như đại địa, tĩnh lặng mà suy nghĩ sâu kín như tàng chứa những điều bí mật, vì vậy gọi là Địa Tạng. Theo các sách: Bản nguyện công đức kinh, Địa tạng thập luận kinh, Địa tạng giảng thức, trong thời gian từ sau khi đức Phật Thích ca nhập Niết bàn đến trước khi đức Phật Di Lặc ra đời, Địa Tạng Bồ tát là người cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Ngài nguyện  cứu hộ hết chúng sinh trong lục đạo rồi mới nguyện thành Phật. Ngài hiện thân trong cõi trời, cõi người và trong địa ngục với dáng đầu tròn, một tay cầm viên ngọc quý, một tay cầm cây tích trượng.

Ở chùa Hưng Sơn, Địa Tạng Bồ tát được thờ ở ban thờ vong, sát tường đầu hồi bên trái, quay vào gian giữa.

– Đức Chúa Ông

Tượng Đức Chúa Ông được thờ ở gian bên tay phải tòa Tiền đường. Đức Chúa Ông còn được gọi là Thủ hộ Già lam. Tượng ngài trong tư thế ngồi trên ngai, đầu đội mũ cánh chuồn, có râu đen, hai tay để trên gối.

Trước đây ở vùng đồng bằng Bắc bộ có tập tục bán khoán con trẻ cho Đức Chúa Ông (nhiều nơi gọi là Đức Ông). Tại sao lại có tập tục như vậy? Vì khi mới đẻ ra, trẻ con hay quấy khóc. Gia đình xem bói, thầy bói phán rằng, đứa trẻ sinh ra chạm vía các quan, khó nuôi, phải bán khoán cho Đức Ông thì mới mát mẻ, hay ăn chóng lớn. Thế là người ta làm lễ bán khoán đứa trẻ cho Đức Ông để  mời ngài bảo trợ cho đứa trẻ khỏi gặp tà ma quấy nhiễu. Những người đã được bán khoán cho Đức Ông tập hợp thành một hội gọi là Hội Con hương (hay Hội Con nhang).

  1. Tín ngưỡng thờ tự ở nhà tổ

Nơi thờ các vị sư tổ ở chùa Hưng Sơn được gọi là “Lưu Ly điện”. Tại đó có ba án thờ Tổ. Án thờ ở giữa, có thờ bốn vị tổ, được bố trí ngồi trên bệ ở trước và sau (có ba tượng và một ảnh). Ngồi chính giữa, phía sau là tổ Bồ Đề Đạt Ma.

Theo sách “Thiền uyển kế đăng lục” (bản chữ Hán, do hòa thượng Phúc Điền soạn), Bồ Đề Đạt Ma là vị sơ tổ của Đông thổ, người nước Nam Thiên Trúc, con út của Hương Chí vương, đắc pháp với Bát Nhã Đa La. Hành hóa ở Nam Hải suốt 7 năm liền dưới thời Lương, Tấn. Lương Vũ đế hỏi: “Như thế nào là thánh đế đệ nhất  nghĩa?” Tổ đáp: “Khuếch nhiên vô Thánh”. Vua lại hỏi: “Thế trẫm là ai?”. Tổ đáp: “Không hiểu”. Vua thấy không hợp. Tổ bèn sang sông, quay mặt vào tường chùa Thiếu Lâm 9 năm liền. Sau, đến chùa Thần Quang cầu pháp. Tổ thấy mệnh của mình có thể đắc đạo. Tuệ Khả lạy ba lạy, đứng hầu. Tổ nói: “Ngươi được điều cốt tủy của ta, bèn nói rằng: Như Lai chính pháp nhãn tạng phó chúc cho Ca Diếp rồi truyền đến ta. Ta nay phó chúc cho ngươi. Ngươi phải giỏi hộ trì. Hãy nghe bài kệ của ta:

Ngô bản lai tư thổ

Phó pháp cứu mê tình

Nhất hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành.

Phó bài pháp kệ xong, sư hiện thần mặc áo, ngồi dựa vào tòa thị tịch. Nhà vua lấy quan tài vàng tàng thi hài, mai táng ở núi Hùng Nhĩ. Ba năm sau, Chu Vân nước Ngụy phụng mệnh đi sứ mang về. Đi qua núi tổ Hốt Lĩnh, chống gậy mà đi, hỏi: Đi về đâu?” Tổ nói trên tầng mây: “Về Tây Thiên”. Nhà vua sai mở đường. Duy lưu lại một tấm da. Phụng chiếu cúng dàng Thiếu Lâm tự.

Án thờ bên tay phải, có hai vị. Vị tổ ngồi trước đầu đội mũ, mặc sắc phục màu vàng. Vị ngồi sau mặc sắc phục màu cánh gián. Án thờ bên tay trái phía trên có bức hoành phi “Quang cảm động”. Trên án có tượng của ba vị tổ. Một vị ngồi chính giữa, ở tư thế cao hơn và hơi lui về phía sau. Hai vị hai bên thấp hơn, ngồi ở vị trí tiến lên phía trước.

  1. Tín ngưỡng thờ tự ở nhà Hậu, nhà Mẫu và lầu Quan Âm

4.1. Tín ngưỡng thờ tự ở nhà Hậu, nhà Mẫu

Ở chùa Hưng Sơn, tín ngưỡng thờ Hậu và thờ Mẫu được bố trí trong một một toà nhà.

Tại ban thờ Mẫu có khám thờ Ngọc Hoàng, tượng ngũ vị tôn ông và tượng ngũ vị chầu bà. Ở ban thờ hậu có tượng các cụ hậu và tượng mẹ đẻ ông Vượng (Hà Nội), người công đức tiền của xây dựng nhà Hậu.

Trai các ngai thờ hậu có một số bài vị: “Hiển linh quy Phật Nguyễn phủ quân tự Phúc Trung chi vị”, “Hiển linh quy Phật Nguyễn Thị hiệu Từ Thanh chi vị”, “Hiển linh Thái lạc Bà môn ngũ lục quy Phật Nguyễn Thị hiệu Hoà Hôn nhân”.

4.2. Lầu quan âm

Được dựng trong khuôn viên chùa vào những năm 20 của thế kỷ XXI, do ông Trung (lái xe của ông Nguyễn Thế Thảo) công đức. Lầu được toạ lạc trên hồ nước. Tượng Quan âm được tạc bằng đá cẩm thạch trắng, có kích thước cao hơn 1,80m.

Tóm lại, tín ngưỡng thờ tự ở chùa Hưng Sơn về cơ bản thể hiện được truyền thống thờ tự của Phật giáo Đại thừa, nhưng cũng có một số đặc điểm riêng. Điều đó thể hiện ở tín ngưỡng thờ tự ở Tam bảo, Tiền đường, nhà Tổ, nhà thờ Hậu; ở cách bài trí các pho tượng,… Tìm hiểu đặc điểm điêu khắc, chúng ta cũng thấy tượng thờ ở chùa Hưng Sơn được tạo tác vào nhiều thời điểm khác nhau, trong đó có những pho tượng cổ, có giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật rất quý.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hưng Sơn Tự –  Ký Ức Và Hiện Tại

Tác giả. Nguyễn Kim Tích

– Bút danh Nguyên Bình – Làng Diềm

*

Tựa

Mọi sự vật, sự việc sinh ra (xuất hiện) và thay đổi liên tục trong một quá trình. Nếu ta quan sát, ghi chép được thì: trước là nhận xét, nhiều lần tương tự trở thành kiến thức, khi xâu chuỗi lập đi lập lại tức là khám phá ra quy luật. Quy luật có tự nhiên và xã hội.

Công trình ghi chép toàn diện từ trước đến sau theo thời gian, không gian giới hạn gọi là lịch sử. Với phạm vi gia đình hay dòng họ gọi là gia phả hay tộc phả… Hiểu được, nắm được lịch sử rồi đem suy nghĩ, vận dụng có thể phán đoán tương lai, trên cơ sở ấy mà đề ra quyết sách, kế hoạch thích hợp, phù hợp quy luật sẽ dễ thành công hơn. Kết quả nghiên cứu & thực hành nhanh chóng và tiết kiệm chi phí hơn. Tư liệu lịch sử là bài học nhãn tiền giúp hậu thế … gạn đục khơi trong.

Ghi chép lịch sử là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Sự vật, sự việc trong quá khứ là di sản quý giá, bởi nó không thể tìm ra nếu không có người lưu giữ, ghi chép, tương tự như thời gian không bao giờ quay trở lại. Tóm lại, lịch sử là quan trọng, quý giá và cần thiết với bất luận lĩnh vực nào. Đó cũng là lý do mà bài viết này ra đời, nhằm cung cấp phần nào để viết nên cuốn “Lịch sử chùa Diềm”.

 

Do khả năng hạn chế, diễn đạt & trình bày vụng về, tài liệu còn nhiều thiếu sót, kính mong đọc giả vui lòng thông cảm!

 

Chùa làng Diềm

 

Chùa làng Diềm hay làng Viêm Xá là ngôi chùa khá to và cổ kính. Chùa Diềm còn có tên là “Hưng Sơn tự” bởi lẽ, chính gian giữa ngôi Tam bảo cũ cũng như mới có treo bức hoành phi chạm ba chữ Hán – Hưng Sơn Tự sơn son thếp vàng.

Chùa Diềm nằm trong khuôn viên làng Diềm cổ nhưng không bị nhà dân bao kín. Trước đây, các công trình trong chùa gồm cả đất vườn có diện tích hơn một mẫu Bắc bộ. Các công trình chùa chính theo hướng trông về Đông – Nam. Vào chùa, từ phía trước qua cổng làng (nay chính là cổng chùa) qua ngang đường, bước tới cầu bằng tấm đá xanh to bắc qua rãnh nước hơi rộng tới bờ bao thấp, trên đó xây 4 cột gạch khá cao tạo thành 3 lối qua khoảng cách giữa 4 cột gạch (có lẽ đây được gọi là cửa Tam quan). Từ đây, theo lối ở giữa qua đường nhỏ là bờ ngăn cách 2 thửa ruộng cấy 2 bên. Cuối đường đi vào ngay gian giữa ngôi gác chuông là ngôi nhà 3 gian, 2 trái cao 2 tầng nên có 8 mái, có “cổ diêm” giữa 2 mái mỗi tầng. Hàng cột cái ngôi gác chuông này đường kính có lẽ tới 70 – 80cm, cao khoảng 9 – 10m bằng gỗ lim. Tại nhà gác chuông này, trên tầng 2 về phía tây treo một quả chuông lớn. Cũng gian này, ở phía trước thuộc tầng 1 là nơi thờ Ngài “Giáp Ngọ” cũng là một trong Ngũ vị Thành hoàng làng Diềm. Qua Tam bảo tới sân thường gọi là sân Tam bảo lát gạch vuông, chiều rộng của sân khoảng 5 – 7m là tới phía trước nhà Tam bảo.

Ngôi Tam bảo có 5 gian và 2 bên là dĩ rộng có bố trí tượng thờ. Ngôi này bằng gỗ lim và cột cái có lẽ đường kính cũng tới 50 – 55cm và cột hành cũng được khoảng 40cm đường kính. Ngôi Tam bảo có kiến trúc “chuôi vồ” và sau chuôi vồ là sân nhà Trai. Nối giữa 2 đầu tam bảo tới 2 đầu nhà Trai (nhà bếp) là 2 dãy hành lang có bố trí tượng thờ và có cửa thông giữa ngôi Tam bảo và nhà Trai. Nhà Trai cũng có 5 gian và lòng rộng, 2 đầu hồi xây gạch, trước sau các gian lắp cửa bức bàn, còn lại thì phân phòng thưng gỗ, là nơi cho khách hoặc tăng ni ở. Phía sau nhà Trai là sân nhà Tổ. Sân này rộng lắm và tương đối vuông, mỗi chiều khoảng 12 – 14m. Phía Tây bắc sân nhà Tổ là nhà Tổ cũng khoảng 5 – 7 gian có lẽ cũng toàn bằng gỗ lim. Phía sau nhà Tổ tới vườn sau và cuối vườn là giáp đường làng. Nối giữa 2 đầu nhà Tổ và các đầu nhà Trai là 2 dãy nhà ngang là nơi đặt bếp đun nấu, nơi để cối xay lúa, giã gạo, nhà têm trầu khi có sự lễ, nơi bày cỗ… Tại khu vườn phía sau dãy bếp bên phải là chuồng nhốt trâu cày, nơi để dụng cụ nhà nông… v.v

Với chùa Diềm, lệ hàng năm từ trước có và vẫn duy trì, một là: Lễ Thượng nguyên vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch. Ngày này nhà chùa (có thể là có làng phối hợp) làm cỗ chay cúng Phật, đãi khách. Dịp này, khách thập phương và dân làng ra chùa đông lắm. Ngày xưa có cả trẻ nhỏ cũng tới lễ và hân hoan lắm. Hai là: Ngày giỗ Tổ chùa, đó là 25 tháng 9 âm lịch hàng năm. Với lệ này, thì các bậc tín tâm và Phật tử thì ra chùa chuẩn bị, sắp sửa mọi việc, bài trí từ ngày hôm trước, vì ngay tối 24/9 tại chùa đã đông và nhộn nhịp về cảnh tượng lắm rồi. Hôm sau 25/9 thì đón khách, cúng Phật, đọc kinh…, ăn cỗ cùng những hình thức giao lưu tôn giáo khác. Dĩ nhiên là cũng như mọi nơi, một tháng đôi tuần, tết Nguyên đán, vào ra hè, khai xuân, tất niên, rằm tháng 7 (âm lịch), ngày Phật đản hàng năm cũng có nghi thức đầy đủ. Cùng với xã hội nói chung, tập tục, tập quán về lề lối sinh hoạt, kể cả trong tín ngưỡng đều thay đổi theo tình hình của đất nước ở từng thời kỳ. Thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” quãng năm 1948 – 1949 đình và chùa Diềm cũng trong tình trạng ấy. Ngôi đình 3 gian 2 trái đồ sộ và 3 gian tiền tế liền kề trước đình, người ta còn cào bỏ hết ngói lợp, vì tiếc và sợ công trình “cửa võng” hết sức quý giá, đặc biệt “có một không hai”, nên riêng gian giữa và chuôi vồ hậu cung thì được giữ lại. Còn ở chùa thì chỉ ngôi Tam quan là bị cào bỏ ngói lợp mà thôi.

Chính điện Chùa Hưng Sơn làng Diềm, 2022. Ảnh: Trần Thành

Tuy vậy, do chiến tranh, cuộc sống sinh hoạt bị xáo trộn, nhiều thứ do “lực bất tòng tâm” đa số lề lối, tập quán kể cả tín ngưỡng bị bỏ qua, sao nhãng. Ở chùa, thì tăng ni cũng mai một, lúc có người ở lúc không, nên toàn cảnh ở chùa bị bỏ bê quá nhiều. Sau những năm 50 – 55 của cuối thế kỷ trước, vị sư của chùa cũng rời đi, để từ đấy chùa không có sư trụ trì. Hồi ấy, dân làng tìm người ra trông coi chùa mà thôi. Tam bảo chùa hoặc đền Vua Bà dạo ấy dùng làm trụ sở ủy ban xã, hoặc các lớp học của trẻ con…, khi ở nơi này, lúc ở chỗ nọ. Cứ thế tiếp diễn và theo thời gian, đến khoảng 1960 – 1963 toàn bộ chùa Diềm chỉ còn ngôi Tam bảo, một phần nhà trai và nhà Tổ chỗ thì dột, chỗ thì sắp đổ. Và, khoảng năm 1988 – 2003 thì nhà trai và nhà Tổ sắp đổ cũng bị dỡ bỏ hết, nền nhà Tổ, sân nhà Tổ thì xây dựng thành sân phơi của HTX Viêm Xá, và sau khi HTX vỡ, giải thể, sân này cùng với nhiều nhà kho, sân phơi khác trong làng Viêm Xá được cắt nhỏ, chia cho một số gia đình làm nhà ở.

Trước cảnh chùa thời gian ấy, với tư tưởng hoài cổ, đã có người thốt lên và bộc bạch thành thơ rằng:

Tức sự chùa làng

Hưng Sơn cũng vẫn chùa Diềm

Trung tâm thờ Phật, khuôn viên rộng dài

Đây Tam bảo, kia nhà trai

Phía sau nhà Tổ, bên ngoài tam quan

Tả hữu hai dãy hành lang

Nối từ Tam bảo tới nhà đàng sau

Dễ chừng chùa tới trăm gian

Tượng thờ nạm bạc, thếp vàng từ lâu

Công trình văn hoá hàng đầu

Mà thời loạn lạc, Tây, Tàu phá đi

Buồn trông phong cảnh suy vi

Mỗi ngôi Tam bảo, trụ trì chơ vơ

Ngẫm, nhìn tiếc ngẩn người ngơ

Hiện đang xây mới nơi thờ khang trang

Giờ đây đương độ xuân sang

Chỉ vài tháng nữa dân làng hoàn công.

(24.01.2007)

Ký ức về chùa Diềm trong tâm trí tôi còn khá rõ, vì trước đây (khoảng 1947 – 1948) tôi đã từng học ở đấy. Khi lớp ở Tam bảo, khi lớp lại ở Tam quan, phía dưới gác chuông. Tôi nhớ rằng, quãng 1963 – 1964 tôi còn dạy bổ túc thêm cho ông Vàn (nay đã về hưu) để chuẩn bị thi vào cấp 3 trường Hàn Thuyên năm ấy, ngay dưới mái Tam bảo chùa làng. Chùa Diềm không những uy nghi, bề thế, được kiến trúc theo kiểu “nội công, ngoại quốc”, có nhiều tượng cổ, trong đó có pho A – di – đà và đức Thế tôn to lớn lắm. Khoảng năm 2010 – 2011 khi tu bổ tượng Phật, để di dời đã phải dùng đến 8 – 10 người với đòn nọ, vật kia mới làm nổi. Đặc biệt chùa có quả chuông to lắm. Chuông này treo ở tầng 2 ngôi Tam quan 2 tầng 8 mái cao to (3 gian 2 trái) và đẹp lắm. Tiếc rằng, khoảng năm 1948 – 1949 tôi nghe người ta bảo rằng theo chủ trương của cấp trên, sẽ lấy một số chuông của dân làng đây đó, đem ra vùng tự do để đúc lựu đạn đánh Pháp. Và thế là họ trèo lên chặt đứt chiếc xà tam quan (nơi treo quả chuông) để chuông rơi xuống nền gạch được lót rơm trước. Sau đó, chuông được khiêng xuống thuyền ngược dòng sông Cầu, thấy bảo đem lên Bầu (nay thuộc xã Cẩm Xuyên, huyện Hiệp Hoà, Tỉnh Bắc Giang). Từ đó đến nay, làng Diềm cũng như các vùng lân cận không được nghe tiếng chuông làng Diềm vang lên trước khi trời về chiều tối hàng ngày nữa. Mỗi khi tiếng chuông vang lên thì tạo khoảng cách quãng 8 – 10km vẫn nghe rõ mồn một. Dịp ấy, riêng làng Diềm bị lấy đi 3 quả chuông gồm: 02 quả ở chùa (một ở Tam quan, một ở nhà Tổ), 01 quả ở đền thờ Vua Bà – Thuỷ tổ quan họ Bắc Ninh. Song, 2 quả ở nhà Tổ và đền Vua Bà thì nhỏ hơn quả chuông ở Tam quan.

 

Những điều thấy ở tập viết này là hoàn toàn có thật, cái gì tả thật, vật thật là đúng mắt thấy, điều gì được biết do kể lại, nói lại coi là truyền thuyết thì đó là do tai nghe được, không hư cấu hay hư cấu thậm xưng. Về lịch sử chùa Diềm tôi thật không đủ khả năng, và đặc biệt chưa có được các tài liệu đầy đủ, đáng tin cậy. Thú thật rất mong muốn nhưng có lẽ … lực bất tòng tâm. Tuy vậy, bản thân sẽ cố gắng dựa vào một số tài liệu, di chỉ, tình tiết, hiện vật trong ký ức, cũng như một số câu chuyện và truyền thuyết lĩnh hội được từ các bậc tiền bối lưu truyền, để ai đó có nhiệt tình và tâm huyết, có thể tham khảo trong một số nội dung.

 Ngược dòng thời gian, lần tìm dấu ấn

Đã từ lâu và từ nhiều lần được nghe trong dân thôn Viêm Xá đều truyền rằng: tại khu “Mả Bến” phía đầu làng trước đây có ngôi chùa và sau này người ta vẫn gọi là khu “Chùa Đổ”. Khoảng những năm 60 – 70 của thế kỷ trước, thỉnh thoảng lại có người (từ đâu không rõ) đến hỏi một số người làng “Cửa (cổng) chùa Đổ” ở đâu? Và cuối cùng, không người nào nhận được câu trả lời thỏa đáng. Bởi lẽ từ cách đây gần 80 năm về trước, cá nhân tôi cũng chỉ thấy tồn tại chỉ là khu đất hoang mọc đầy cỏ rác và cây hoang dại. Sau này, khi lớn lên tôi thường chăn trâu bò ở đó mãi, khi trời mưa dầm – gió bấc không muốn tới đồng cỏ ở xa.

Trực tiếp nghe bố tôi kể lại: Hôm ấy, hôm nọ có người lạ, họ cứ lên núi Thấp ngắm nhìn, … Rồi lại về xóm Đông của làng hỏi: Ông có biết “cổng chùa Đổ” ở đâu không?… và v.v lập đi lập lại. Thực tế thì ở các xứ đồng ở quê hương đây cũng có nhiều câu chuyện ly kỳ lắm, và gắn liền với các di chỉ còn sót lại. Trước đây và đến bây giờ thì mai mốt quá nhiều, rồi nhất là sau cuộc cải cách ruộng đất năm 1955, và đặc biệt trong và sau giai đoạn “Hợp tác hoá” nông nghiệp từ 1959 – 1986, nhiều di chỉ tự nhiên bị san phá không còn dấu tích. Một số hiện còn nhưng rất ít ỏi và mờ nhạt. Ví dụ như: Bến Ông, Bến Bà, Lồng Cầu, Nam Biên và cánh đồng “Mặt Gương” đầy bí ẩn. Tôi có nghe nơi một vị tiến sĩ văn hoá tên Trần Đình Luyện có nói rằng: Khi nghiên cứu làm luận án tiến sĩ tôi có cảm nhận đây chính là “Nam Biên Thành” (cánh đồng mặt gương nằm giữa địa phận Viêm Xá & Hữu Chấp) nhưng chưa đủ tư liệu để kết luận. Và như vậy suy ra: Có lẽ nơi gọi là chùa đổ này nằm bên bờ bức “hào” rộng bằng bề ngang sông Cầu, bao quanh “Thành” này, có lẽ nếu có thể tồn tại song hành với ngôi thành ấy. Và có thể, từ tiền sử thời kỳ “Bắc thuộc”?

Cho đến nay, dựa trên số ít văn bia còn sót lại ở chùa Hưng Sơn và những câu chuyện truyền miệng với những sự vật, sự việc gần đây, nên chỉ có thể biết được ít nhiều sự vật, sự việc về ngôi chùa hiện nay mà thôi. Bởi lẽ, không có hoặc không đủ chứng lý lịch sử, ngay chiếc bia đá to đặt ở cổng Tam quan đã bị vứt vạ vật và không biết rõ nằm ở nơi nào rồi. Và cũng chỉ mới vài ba chục năm nay, chùa Hưng Sơn đã 2 lần mất tượng Phật mà hầu hết là những pho tượng cổ vào loại nhất. Đó cũng thể hiện việc gìn giữ di sản là thiếu sự quan tâm. Cùng các vị: Cái gì mất thì mất rồi, cũng không vì thế mà bỏ qua tất cả. Ta hãy chung sức mà cùng nhau lần tìm để có thể biết về cội nguồn bao nhiêu càng tốt.

Lần theo dấu vết

Ngày nay chuông chùa đã mất, bia đá không đủ, chỉ còn lại 2 pho bia tại chùa Hưng Sơn, Khu Viêm Xá, Phường Hoà Long, TP. Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh. Trụ trì chùa Hưng Sơn, Đại đức Thích Quảng Hợp đã dày công mời người thâu bia, lộ chữ và dịch thuật nội dung bia đá tại chùa, cũng như liên hệ với thư viện Viện nghiên cứu Hán – Nôm sao được bản dịch từ bản dập in chữ Hán trên nền quả chuông chùa Diềm đúc năm Phúc Thái thứ 7 (1649) mang ký hiệu 5279/ab. Căn cứ vào tài liệu này, và nội dung các bia đá còn lại:

1/ Bia ghi công đức Bản Xã tạo bia năm Quý Hợi

2/ Bia chùa Hưng Sơn

Ta hãy cùng nhau mường tượng và nhận thức về sự tồn tại và hình thái chùa Diềm trong một số thời kỳ có thể.

Vẫn khẳng định rằng, chưa chắc ai đã biết về chùa Diềm có từ bao giờ, qui mô và sự tin thờ duy trì và phát triển từ ấy ra sao. Song từ các căn cứ nêu trên có thể có được một khái quát như sau: Chùa Diềm chắc chắn có từ trước nửa đầu của thế kỷ 17, lúc này chắc đã qua nhiều lần sửa chữa hoặc di dời từ nơi này tới chỗ nọ do những thăng trầm của xã hội, xuống cấp, hư hỏng do yếu tố thời gian tác động, hoặc vì chiến tranh mà có sự hưng vong, chìm nổi, …. Bởi thế, trong dư âm ở làng Diềm một số năm trước có đề cập: Chùa hiện nay là chùa thứ 3. Trước đây còn có chùa ở “Vườn Dừa” (một xứ đồng ở phía Tây Bắc làng) và ở Mả Bến (mà sau này người ta gọi là chùa đổ. Song hai ngôi chùa ấy hiện nay không còn dấu vết, hoặc nói đúng ra nếu còn cũng rất ít và mờ nhạt lắm.

Với những tư liệu nhìn từ 3 – 4 trăm năm trước, chùa Diềm đã có quy mô khá lớn, hoạt động phụng thờ Phật – Thánh ở đây rất sầm uất, mà chắc chắn dân cư không còn thưa thớt nữa. Trong bối cảnh “dân an – vật thịnh” ấy, việc tôn tạo đình, chùa tất nhiên sẽ được nghĩ đến, không chỉ ở địa phương bản chùa, mà tiếng lành đồn xa khiến người từ nơi khác cũng biết đến. Vì vậy, khoảng năm 1649 bà Lê Thị Ngọc Liên – Hiệu diệu Thái, người xã Thịnh Liệt, Huyện Thanh Trì, đạo Sơn – nam, nước Đại Việt (Việt Nam hiện nay, bà sống trong vương phủ ở Trung Đô (Hà Nội) trước khuyến vương công, sau công đức vật liệu tạo chuông, và cùng vị tăng lữ xuất gia trụ trì chùa Hưng Sơn là Đỗ Thị Ngọc Cảnh – Hiệu diệu Như cũng tự bỏ tiền, của tạo thành pháp khí (quả chuông). Thiện nam, tín nữ, vương công thập phương, tín thí trợ giúp, đúc kết thiện duyên, lập đàn tràng mở hội quyên góp, thế là tài, vật khắp nơi đổ về. Đồng khí đúc xong nặng tới nghìn cân có dư (khoảng 650 – 700kg, cân ở đây chắc là cân ta) càng hoàng dương Phật pháp, đúc chuông lớn chùa Hưng Sơn. Cổ nhân có câu: Hễ nghe thấy tiếng chuông thì phiền não tiêu tan, trí tuệ trường tồn, bồ đề sinh sôi, địa ngục siêu thoát. Nguyện lòng thành Phật đạo, cứu độ chúng sinh, cầu cho tiếng chuông này siêu pháp giới. Khai quang u ám, chiếu rọi quang minh, tam đồ bất nạn gắng sức luân hồi, nhất thiết chúng sinh thành chính giác. Vì thế có bài minh thuật lại rằng:

Hoằng đồ củng cố

Man di phụng tiến

Yên Phong huyện ấy

Phật thần hiển ứng

Quý quan chức trọng

Trước non sau thủy

Vũ Thăng quận quốc

Nông nhiều sản vật

Sư nhiều công lộc

Sớm chuông chiều trống

Chuông lớn nguyện thỉnh

Dưới thông địa phủ

Trời ban ngũ phúc

Thánh hiền chứng giám

Toàn xã lớn nhỏ

Đàn bà hội lập

Có bao tính danh

Quốc thế an cường

Vạn quốc chầu vương

Chế độ kỷ cương

Phù hộ lân hương

Phụ tá thánh hoàng

Trong ngoài nghiêm trang

Văn chiếm bảng vàng

Tích chứa đầy rương

Phú quý vinh quang

Chúc thánh thắp hương

Tiếng vang muôn phương

Trên thấu thiên đường

Phật pháp bách tường

Sãi vãi thọ trường

Người vật an khang

Thảy đều vinh xương

Kê khai sau hết.

(Ngày lành tháng Ba năm Kỷ Sửu – Phúc Thái thứ bảy (1649), vị họ Nguyễn, xã An Việt, huyện Siêu – loại khắc chữ. Người dịch: Tiến sĩ Đinh Khắc Thuân).

Có lẽ, trong sự hưng thịnh cùng với tiếng vang lan toả cõi tâm linh, cũng như sự hiện hữu của quả chuông hiếm có ấy đã giải thích phần nào sự hình thành và tồn tại hai chữ “Phổ chiếu” bằng chữ Hán trên nóc ngôi Tam bảo chùa Hưng Sơn?

Trong quy luật của tạo hoá cũng như sự thay đổi theo dòng đời với thời gian, khi thì thiên tai, địch họa, bệnh tật, dịch bệnh và chiến tranh mà xã hội thay đổi, kéo theo sự hưng vọng của tôn giáo và nơi thờ tự. Khoảng nửa sau thế kỷ 17, cơ ngơi chùa Hưng Sơn đã dần xuống cấp và ngày càng nghiêm trọng, nơi chùa thì sư ni còn mỏng, dân tình ít ỏi, đời sống khó khăn nên chùa chỉ được sữa chữa nhỏ giọt với nhiều lần tu bổ. Và để ghi nhớ công lao và tấm lòng kính Phật của các nhà hảo tâm, tín đồ mộ đạo đã bỏ tiền của, công sức sữa chữa chùa, nơi thờ Phật – Thánh. Các quan viên hương lão, già trẻ xã Viêm Xá, Huyện Yên Phong, Phủ Từ Sơn cùng các thiện nam, tín nữ cử ra Hội chủ Hưng công thu nhận tiền của công đức và tạo dựng bia đá lưu truyền cho hậu thế. Đó là “Bia ghi công đức Bản xã tạo bia năm Quý Hợi” hoàn thành ngày lành, tháng giữa đông năm Quý Hợi, năm thứ 4 niên hiệu Chính – Hoà (1683).

Thời gian trôi đi, mấy chục năm sau kể từ đấy có lẽ sự phát triển về đời sống văn hoá xã hội dần xuống cấp và tới mức nghiêm trọng đáng kể. Khu đất định cư thu hẹp, dân số giảm, việc sử dụng ruộng đất có thể cũng bị bỏ hoang. Cá nhân tôi, từ những năm 50 của thế kỷ trước cũng suy ngẫm và có những đồn đoán về việc suy giảm này trên cơ sở qua thăm, nhìn nhận những vết tích còn sót lại. Tiếc rằng dấu tích ấy qua thời gian hồi cải cách ruộng đất 1955 và nhất là sau kỳ thực hiện công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp giai đoạn 1959 – 1986 đã hoàn toàn bị phá đến không còn dấu tích. Có lẽ trong bối cảnh ấy, khoảng trước năm Tân Mão, chùa Hưng Sơn vắng bóng sư ni và dân làng trông nom (…) nên Hưng Sơn tự bị xuống cấp nghiêm trọng. Cho đến khi có vị Tỳ khưu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo về trụ trì thì mọi việc dần dần được đổi khác.

Theo nội dung trong văn bia “Hưng Sơn thiền tự trung hưng bi ký”, Tỳ khưu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo sinh năm Đinh Hợi, quê tại xã Vân Khám, Huyện Tiên Du (Phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc) thuở nhỏ đã xuất gia đến chùa Bảo Quang trên núi Lãm, được sư thầy truyền cho tâm ấn. Bấy giờ Tỷ Khưu một lòng giữ trọn đạo hiếu với thầy, an cư nơi tịnh thổ. Đến năm Tân Mão, bản xã (Viêm Xá) chấp thuận cho Tỳ Khiêu được khói hương thờ phụng Phật – Thánh để vận nước thêm lâu dài. Vào năm Nhâm Thìn, nghĩ thấy trong chùa cột nhà hỏng nát, vườn tược cỏ mọc um tùm, điện thờ lộn xộn, thật chẳng xứng với quy mô khi trước, tăng bèn phát đạo tâm, cùng nhân dân chung góp tài lực, rồi quyên mộ các tín thí, thuê thợ trùng tu thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, gác chuông, tam quan, bồi nền san móng, ngói lợp gạch xây. Câu đối, biển thờ sơn son thếp bạc. Bàn ghế bày biện, chạm cột vẽ tường. Lại tạc mới tượng Phật như bức A di đà lớn, Quan âm, Thế chí, Thánh giả A nan, Già lam. Sơn son thếp bạc đẹp đẽ, ngõ hầu lưu truyền đời sau. Gỗ lim chất đống, tập hợp thợ đến hoàn tất. Công việc xong xuôi, cùng mọi người mừng vui cảnh mới. Đến ngày lành tháng 6 năm Đinh Dậu muốn để người đời sau biết sự việc qua tấm bia, (đã) ghi lại công nghiệp lâu dài cho tiếng danh thêm tỏ, chuyên tâm học đạo để công đức lưu truyền lớn lao ngang càn khôn, tỏa sáng cùng nhật nguyệt. Cùng với phong cảnh trang nghiêm, viên dung diệu lý, công đức Phật rạng ngời cao tựa núi, khắp nơi nơi ngưỡng mộ tôn sùng. Thường trụ thế gian, giữ gìn mạch này để yên dân, cũng là giúp thiền lâm tốt tươi, vận nước thêm vững vàng, dân khang vật thịnh, tăng cảnh đẹp chốn già lam và bao hàm khắp pháp giới. Vạn thế công lao ngàn năm còn đó. Kế tục đuốc Phật là để duy trì, kế nối tông phong những mong tiếp bước vậy.

Kệ minh viết:

Phạm vũ Hưng Sơn thế chênh vênh

Phong cảnh trang nghiêm muôn việc thành

Khai sáng trùng tu công còn đó

Bia đá lưu truyền khắc tính danh.

(Ngày tốt tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) triều Lê)

Đến đây ta có thể liên tưởng rằng: Với tâm thế ấy, với sự lan tỏa trong ý nghĩa tâm linh của chùa Diềm cũng có giải thích thêm phần nào về sự hiện hữu của hai chữ “Phổ chiếu” nơi Hưng Sơn tự vậy. Tiếp tục theo trình tự thời gian từ những nội dung trước: Với quy mô và thực thể chùa Hưng Sơn sau đợt trùng tu hoàn thành năm 1777 của Tỳ Khưu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo cùng tín chủ thập phương và nhân dân địa phương đóng góp công của ngày ấy, có lẽ vẫn tồn tại nguyên diện mạo cho đến sau này. Khoảng những năm 1947 – 48, những ai đã đến đây vãn cảnh cũng vẫn nhận thấy đầy đủ cảnh quan, dáng dấp và hình ảnh thực tế các công trình của Hưng Sơn tự như văn bia liệt kê, tất nhiên là đã cũ đi theo thời gian và do tác động của khí hậu.

Đến đây, bản thân tôi lại xuất hiện một chiêm nghiệm: Vị Tỳ khưu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo này có lẽ chính là người đã được dân Viêm Xá truyền tụng từ lâu. Đó là vị cao tăng đã trụ trì chùa Diềm trước đây (có lẽ khoảng hơn vài trăm năm trước?) và lưu truyền cho đến nay vẫn gọi cụ là “Cụ quản tăng”. Bậc cao tăng rất được dân ca ngợi và mến mộ về tài, về đức. Theo lời truyền lại từ các thế hệ trước, tại Hưng Sơn tự trước đây, khi mùa hạ tới hàng năm, có nhiều tăng ni về chùa hạ lắm (hạ có lẽ có nghĩa như học bổ túc, nâng cao nghiệp vụ và trình độ chuyên môn như ngày nay vậy). Thực tế cho đến hiện nay, hàng năm chùa Diềm vẫn tổ chức cúng giỗ cụ quản tăng 25/9 âm lịch. Ngày ấy, các cụ bà làng Diềm và Phật tử thập phương về dự rất đông, không khí nơi đây khi ấy rất vui vẻ, phấn khởi, tràn ngập niềm hoan hỉ, trang nghiêm… Các tín đồ, tín chủ lễ Phật, thụ lộc cỗ chay mà số mâm cỗ đãi khách khoảng 1 – 2 trăm mâm. Mỗi dịp như vậy, các cụ làng Diềm và tín tâm Phật tử thường ra chùa lễ Phật từ tối hôm trước (24/9), còn việc lau chùi, mua sắm, bày biện, hương hoa, … đã được chuẩn bị từ vài hôm trước.

Nơi an giấc ngàn thu của cụ quản tăng – Vị trụ trì rất được trân quý của chùa Diềm là một ngôi tháp xây bằng gạch tại một vị trí riêng ở phía Nam trước làng, hiện còn nguyên và được trông nom chu đáo.

Chùa Diềm sau cách mạng tháng 8 – 1945 và trong những năm kháng chiến chống Pháp

Sau cách mạng tháng tám, quãng năm 1945 chùa Diềm vẫn giữ được cảnh quan cũ, sinh hoạt tôn giáo bình thường như trước đó. Tăng ni làm ruộng (khoảng 6 mẫu Bắc bộ, có nuôi trâu cày và đầy đủ nông cụ) song song với việc phụng thờ Phật thánh, duy trì các nghi lễ hàng năm. Cứ mùa vụ đến, nếu lực lượng lao động nội bộ không đủ thì thuê người cày ruộng, cấy lúa, thu hoạch.

Theo thời gian, cùng với sự biến đổi của xã hội tăng ni tại đây cũng giảm dần, và sau khi sư ông: “cụ đăng gia” mất, thì vị Tỳ khưu duy nhất còn lại ở đây là ông sư Vĩnh. Sau công cuộc cải cách ruộng đất năm 1955 ruộng nhà chùa bị lấy ra chỉ còn số ít và việc đóng thuế cho nhà nước của nhà chùa cũng như một gia đình nông dân nơi làng xóm. Cũng từ đó, do nhiều yếu tố hoạt động tín ngưỡng mờ nhạt lắm, chưa nói tới việc cúng bái (của Thầy cúng tới các gia đình) còn bị ngăn cấm, dò xét v.v… Cũng từ đấy cho đến những năm sau thì chùa, đền Vua Bà, một số chỗ trở thành lớp học cho các cháu, hoặc nơi làm việc của ủy ban hành chính xã Hoà Long, khi ở gác chuông, khi chuyển về tam bảo hay dọn đến đền Vua Bà …

Năm 1949 Pháp đánh chiếm thành Bắc Ninh, với lo ngại Pháp lấy nơi đình, chùa là nơi đóng quân, theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” thì ngôi gác chuông và một số vị trí đình làng Diềm bị cào bỏ mái ngói lợp. Riêng gian giữa và phần chuôi vồ đình Diềm thì được bớt lại ngói để bảo vệ cửa võng và hậu cung không bị mưa nắng. Ngày ấy dân Viêm Xá chạy tản cư lên các vùng thuộc Bắc Giang, Thái Nguyên tránh giặc Pháp. Đầu năm 1950, dân làng Diềm về hồi cư và lập chính quyền “TỀ” nhưng đây là TỀ cứu quốc hay TỀ hai mang, để dân vẫn yên ổn làm ăn, nhưng lại vẫn giúp đỡ được, tham gia đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong điều kiện ấy, đến năm 1953 dân làng Diềm họp bàn và đi đến thống nhất: sữa chữa và khôi phục lại đình làng. Do kinh phí không có, nên quy mô ngôi đình bị thu hẹp lại chỉ còn 1 gian 2 trái, bỏ 3 gian tiền tế. Ngói lợp thì dỡ một số điếm đem lợp đình. Số gỗ của 2 gian đình bỏ ra, bộ khung 3 gian tiền tế, toàn bộ khung sườn toà 3 gian 2 trái, 2 tầng 8 mái tam quan (gác chuông) chùa Hưng Sơn đem bán ra làng Bát Tràng làm củi đun lò gốm, lấy tiền trả công sữa chữa đình.

Còn ở chùa làng, chùa Hưng Sơn thì khoảng năm 1965 – 1967 gì đó, khi sự Cụ chùa Thổ Hà mất, sư Vĩnh chùa Diềm là đệ tử của cụ đồng thời trông nom cả 2 chùa và mấy năm sau thì vị sư này ở hẳn chùa Thổ Hà. Từ đó chùa Diềm lại không có sư. Ít lâu sau nghe nói với lý do tế nhị ngài sư Vĩnh bỏ chùa về quê sinh sống, nghe đâu nơi ấy thuộc vùng Mai Lâm, đối diện qua sông Đuống của Đức Giang (Gia Lâm?). Sư đi, các công trình còn lại của chùa Diềm dần xuống cấp. Tại nền ngôi tam quan, 3 phần ruộng vườn quanh đấy làng cho xây lớp học tạm thời, sau này khi có nơi thay thế chỗ này bị dỡ bỏ và trong điều kiện cả làng vào Hợp tác xã thì khu đất ấy được giao cho cá nhân canh tác, nộp tiền cho HTX (Trong đó có ông Nguyễn Văn Ca đội 3). Từ ấy theo thời gian, trong sự tồn tại và phát triển của phong trào hợp tác hoá trước ở phạm vi thôn, sau đó lên qui mô toàn xã thì ngôi nhà Tổ nát, sắp đổ cũng được dỡ bỏ và thay vào đó là chiếc sân phơi, nơi đặt máy suốt lúa hình thành và hoạt động. Khoảng những năm cuối thế kỷ trước, khi hợp tác xã đổ vỡ, ruộng chia cho các gia đình nhận khoán (khoán 10) thì những sân kiểu này được chia cho 1 số gia đình làm nhà và thành đất ở cho tới ngày nay. Sân, vườn, nền nhà tổ chùa Diềm cũng trong số phận ấy.

Chùa Diềm trong, sau khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới

Từ những năm cuối của thế kỷ 20, kinh tế cả nước nói chung và vùng Quê làng Diềm nói riêng dần khởi sắc và sau đó phát triển khá nhanh. Xã hội đã đổi khác, việc lễ bái nơi thờ Phật – Thánh không bị nhòm ngó, thậm chí cấm đoán như trước nữa. Tại các đình, chùa, đền Vua Bà, nhất là ở Đền Cùng – Giếng Ngọc thuộc làng Diềm dân làng và khách thập phương đến dâng lễ cầu tài, cầu lộc, cầu an ngày càng đông, do vậy tiền đặt lễ, tiền công đức thu được cũng ngày càng nhiều. Số tiền ấy, hội người cao tuổi Viêm Xá đứng ra quản lý, tổ chức, phân công hội viên đón tiếp, hướng dẫn và giúp đỡ, phục vụ khách thập phương hàng ngày và suốt các năm tháng tiếp theo. Trong bối cảnh ấy, người làng Diềm thực hiện “uống nước nhớ nguồn” và để sao cho “sâu rễ bền gốc” đã cùng nhau tu sửa, tôn tạo, nâng cấp các công trình văn hoá tâm linh theo khả năng và trình độ hợp lý, hài hoà tại các nơi: Đình (1993), đền Vua Bà (2001), Đền Cùng – Giếng Ngọc (1995 – 1998), chùa, nghè …

Nói chung từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước tới đầu thế kỷ tiếp theo (T.K 21) trong sự lan tỏa và rộng khắp nhanh chóng, khách thập phương về làng Diềm lễ bái rất đông, đặc biệt là dịp Tết nguyên đán, ngày lễ hội làng cũng như thường nhật hàng tháng, ngày 01 và 15 âm lịch. Tín chủ các nơi về đây cầu lộc, cầu tài, cầu bình an, sức khoẻ. Hơn thế, có cả cầu thăng quan tiến chức, cầu mua bán nhà cửa, đất cát, cầu duyên … Tín chủ không những cầu bằng lời khấn chân tình, nhờ các cụ khấn hộ, mà cả bằng lá sớ, sớ có lòng văn bằng chữ nho in sẵn những lời cầu và tên, địa chỉ người chủ dâng cúng viết bằng chữ quốc ngữ (do các cụ viết sớ nhà đền viết giúp).

Khởi đầu khôi phục Hưng Sơn tự năm Quý Mùi 2003

Có một ngày tại Đền Cùng – Giếng Ngọc có tín chủ tên là “ông Vượng[10]” là chủ một doanh nghiệp chuyên sửa chữa, phục chế và làm mới đồ thờ và tượng Phật về cầu tự. Qua tiếp xúc và do mối quan hệ từ ấy giữa chủ doanh nghiệp với một số các cụ trong Ban chấp hành Chi hội người cao tuổi làng Diềm, mà đại diện là cụ Ngô Công Sự và Nguyễn Văn Nghiêm (hội trưởng và hội phó) và nhờ cái duyên đã tới, khi mọi mối quan hệ sâu sắc: Ông Vượng sống tại phố Kim Ngưu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội đề xuất xin được phép xây một ngôi nhà (trong khu nhà đã xây dựng lại) trên nền cũ chùa Diềm. Chi hội người cao tuổi Viêm Xá đề xuất chính quyền và bàn bạc trong dân – Tất cả đều hoan nghênh và đón nhận. Và thế là công trình này được khởi công xây dựng 10 – 8 năm Quý Mùi (2003). Ông Vượng xuất tiền, tìm thợ cùng dân làng Diềm cử người ra trông nom, phục vụ xây dựng. Một trong số các cụ đó là ông Đặng Văn Đường sinh năm 1937 thuộc chi hội người cao tuổi Viêm Xá, xóm 3. Công trình này được thi công liên tục và hoàn thành ngày 30 – 12 năm ấy. Ngôi nhà gồm bảy gian toàn gỗ xoan trừ tàu và nóc bằng gỗ lim, hàng cột hiên tiết diện vuông bằng đá xanh có chạm khắc hoa văn cảnh vật …

Tiếp đó ông Vượng lại cho tu sửa và sơn toàn bộ tượng thờ ở nhà Tổ cũ, tượng các cụ Hậu rồi bố trí nơi thờ tại các gian thuộc ngôi nhà này. Gian thờ Ngọc Hoàng và đức Mẫu với đầy đủ hoành phi, câu đối, Thiều châu cửa võng và ban thờ, đồ thờ mới và đẹp đẽ. Riêng 2 gian ở 2 đầu nhà thì bố trí làm tịnh thất. Ngôi nhà thờ này hối ấy chúng tôi quen gọi là nhà Tổ mới. Đồng thời, song song việc thi công ngôi nhà Tổ nói trên, cũng qua sự giới thiệu, quan hệ 2 chiều của ông Nguyễn Tiến Vượng (có người tin ông ấy có nhà ở phố Bà Triệu – Hà Nội mà Ni trưởng trụ trì chùa Chân Tiên (khu Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội) là biết vị thế và hiện trạng chùa Diềm, sau đó thông hiểu và mến mộ. Cuối cùng yêu cầu khẩn thiết và đáp ứng hoan hỷ thành công viên mãn. Sư cụ Thích Đàm Nhuận cho Pháp tôn trưởng là Sư cô Thích Diệu Thủy chuyển về chùa Diềm chấp pháp. Từ đấy, Hưng Sơn tự lại có sư (khoảng tháng 10 – 11 Quý Mùi (2003).

Sư cô Thích Diệu Thủy với Hưng Sơn tự

Sư cô Thích Diệu Thủy là đệ tử của Ni trưởng Thích Đàm Nhuận trù trị chùa Chân Tiên tại phố Bà Triệu (Thành phố Hà Nội) về chấp tác tại chùa từ cuối năm 2003. Vốn là người còn trẻ, lại được nhận xét là điềm đạm, chín chắn và kiên định, mục đích xuất gia nghiêm túc. Tuy vẫn đảm nhận và hoàn thành công việc nhà chùa, sư cô vẫn tiếp tục theo học trường Phật giáo ở Sóc Sơn (Hà Nội) và đạt bằng cử nhân Phật học sau đó. Chỉ trong thời gian ngắn tiếp nhận chùa Diềm, sư cô đã tổ chức thành công đội kinh A – Di – Đà gồm một số các cụ nữ giới trong hội người cao tuổi làng Viêm Xá. Hàng tối các cụ ra chùa học kinh, đọc kinh niệm Phật … Cùng nhà chùa lau chùi tượng Phật, bệ thờ, quét dọn nơi nội tự cũng như tham gia nhiều việc khác phụng sự Phật – Thánh khi có sự lệ, cũng như các ngày tuần tiết.

Thời gian trôi đi và năm 2005 chùa Diềm lại xảy ra một sự chẳng hay; Một đêm chùa mất một số tượng (khoảng 10 pho, phần lớn có từ Triều Lê). Dân làng xôn xao, nhờ khắp nơi tìm kiếm nhưng cuối cùng vẫn bật vô âm tín. Đồn đi, tiếng lại, rốt cuộc chẳng có lý do, nguyên nhân nào được xác lập, nhưng một thực tế là tượng Phật bấy giờ trong ngôi Tam bảo đã quá xuống cấp và sự sữa chữa, tu bổ đã không có từ quá lâu, cửa tuy có nhưng không chắc, sự việc lại xảy ra bất ngờ, sự việc xảy ra thì thật không ai ngờ tới… Chẳng biết có phải vậy không mà năm 2006, thôn Viêm Xá cũng có một số tiền nên dân và chính quyền thôn nhất trí: xây dựng ngôi Tam bảo mới trên nền đất ngay trước ngôi Tam bảo cũ. Trong bối cảnh nền tín ngưỡng đang rất hưng thịnh, khi xây dựng nhà tổ mới cũng như làm Tam bảo mới này, dân Viêm Xá, có cả khách thập phương cúng tiến công đức rất đông. Danh sách tín chủ còn ghi trên bia gắn trên tường nhà giải vũ phía đông hiện tại. Nhà này cũng được xây dựng ngay năm 2007 do chi hội người cao tuổi Viêm Xá chủ trì, nguồn kinh phí lấy từ tiền thu tại đền Cùng – giếng Ngọc và đình – đền khác trong làng cũng do hội người cao tuổi quán lý.

Trong bối cảnh khách thập phương tới chùa hồi ấy còn khá khiêm tốn, hàng ngày người đến chùa chủ yếu là tín chủ, Phật tử người địa phương duy trì và dần nhân lên mà phát triển. Tuy vậy, nhà chùa đã cố gắng bằng mọi sáng tạo, kiên trì tỏa đạo mà phát huy dần lợi thế để tu tạo, kiến thiết chùa Diềm. Năm 2008 song song việc liên hệ, giáo hóa mua sắm tượng Pháp bù đắp một số vừa bị mất, còn mở rộng xây dựng thành công, lát gạch sân trước Tam bảo, mở rộng 2 bên, kéo dài tới giáp cổng chùa (trước đây là cổng làng) rộng tới 400m2. Việc mua sắm đồ thờ, tô tượng, đúc chuông rất được chú ý. Ngày 25/9 năm Kỷ Sửu (11-11-2009) quả chuông nặng khoảng hơn 500kg được đúc ra tại lò đặt trước cổng chùa trước sự chứng kiến và hoan hỷ của dân làng cùng khách thập phương tới dự. Cũng trong năm ấy, cái trống hạng trung, toang liền cũng được đem về và cùng chuông đặt tại ngôi Tam bảo.

Trừ mấy pho tượng mới sắm, số còn lại hều hết bị hư hỏng nặng do đã quá lâu không được chăm sóc đúng mức và sửa chữa, dân làng và sư cô trụ trì đều mong mỏi được sửa chữa và tôn tạo lại. Khoảng năm 2011, vợ chồng ông Ngô Văn Trung và bà Nguyễn Thị Lưu người quê Viêm Xá đề xuất được công đức 50 triệu đồng để sửa chữa, tô tượng Phật, chính sự việc ấy đã kích hoạt mạnh mẽ và dân thôn được họp bàn mà triển khai ngay công việc. Công trình mở ra, đằng dân cung tiến, nhà chùa khuyến cáo khách thập phương cung tiến ngày càng nhiều. Chỉ khoảng đến 3 năm, qua mấy đợt tu bổ, bổ xung, số tượng Phật được tu sửa, tô lại hầu hết. Hơn thế nữa, theo nguyện vọng của dân, nhà chùa cũng thuê thợ: ông Tước – Nghệ nhân người Bát Tràng đắp hai pho hộ pháp theo nguyên mẫu của chùa Hưng Ký (Hà Nội). Tạo mới sáu pho, hoán cải hai pho “ông Thiện & ông Ác” (gọi theo người làng Diềm) có trước, để hình thành bộ “Bát bộ kim cương” mà chùa Diềm trước đây chưa có. Đồng thời khi tô tượng với số tiền dân cung tiến, khách công đức, Hội người cao tuổi Viêm Xá chuyển sang, nhà chùa cùng lãnh đạo thôn và dân xóm đã hoàn tất mọi đồ dùng nơi thờ tự, từ tất cả các gian thờ nơi Tam bảo, đầy đủ cả cửa võng, thiều châu, hoành phi, câu đối, bệ tượng, ban thờ … Vốn là người cẩn thận và kỹ tính, sư cô Thích Đàm Thủy theo rất sát và chỉ đạo chi tiết việc bố trí, kê xếp tượng Phật cũng như xây bệ thờ, cao thấp, rộng hẹp, ở từng vị trí rất khoa học, tỉ mỉ để việc quan sát, chiêm ngưỡng được bao quát, rõ ràng và toàn diện nhất là nơi chính điện ngôi Tam bảo.

Ông Nguyễn Kim Tích cùng đoàn lên chùa Bảo Quang tìm tư liệu về sư Tổ Chùa Hưng Sơn làng Diềm, 2022. Ảnh: Trần Thành

Đến đây nơi chùa Diềm theo thời gian mọi việc tưởng đã xuôi chèo mát mái. Nhưng việc đời khó đoán, tin dữ xuất hiện: Sư cô Thích Đàm Thủy một mực xin rời chùa đi nơi khác. Mặc dù chi hội người cao tuổi và dân làng Viêm Xá khẩn thiết khuyên nài, tỏ lòng luyến tiếc. Sự việc diễn ra khoảng tháng 7 – 8 – 2012. Từ đó một lần nữa chùa Diềm lại không có sư.

Đại đức Thích Quảng Hợp Hưng Sơn tự tiếp tục phát triển

Năm 2014, chi hội trưởng chi hội người cao tuổi thôn Viêm Xá – Trần Đình Vạn, bằng mối quan hệ rộng rãi từ hồi công tác đã nhiều lần cùng Ban chấp hành chi hội liên hệ với Hội Phật giáo Tỉnh Bắc Ninh, một số đối tác khác, cũng như các chùa còn mối bang giao, công việc đạt nguyện vọng. Được sự tin yêu của dân làng, đương nhiệm trưởng thôn Nguyễn Đức Tư chấp thuận Đại đức Thích Quảng Hợp về đảm nhận việc trụ trì chùa Diềm từ đấy.

Đại đức Thích Quảng Hợp tục danh Trần Văn Thành sinh ngày 8 tháng 6 năm 1980 tại xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, Thành phố Hải Phòng, là đệ tử của Hòa thượng Thích Nguyên Hạnh, trụ trì chùa Tảo Sách ở Quận Tây Hồ – Hà Nội. Về chùa Diềm, song song hoàn thành các công việc nhà chùa, đầy đủ trách nhiệm pháp giới, Đại đức Thích Quảng Hợp vẫn tiếp tục học tập nâng cao và bảo vệ thành công bằng Tiến sĩ Triết học ngày 16 tháng 10 năm 2016 tại số 477 Nguyễn Trãi – Học viện khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Việt Nam. Với sức trẻ, tầm nhìn rộng, khí phách đầy nhiệt huyết và lòng tự tin vững chắc, vị trụ trì chùa Hưng Sơn đề xuất nhiều dự án tôn tạo, xây dựng nâng cao tâm thế chùa, một khi được lãnh đạo thôn, dân làng, chi hội người cao tuổi chấp thuận, hưởng ứng thì công việc được tiến hành ngay. Tại chùa, ngôi Tam bảo cổ lâu ngày quá đã hư hỏng nặng, tuy vẫn còn 1 số chi tiết, bộ cột to (đường kính có tới 45 – 50cm) toàn gỗ lim khá tốt, hơn nữa sẵn có mấy chục mét khối gỗ bạch đàn có năm tuổi tới trên 50 năm đã chặt hạ ngâm nước tới 3 năm được sử dụng. Ngôi nhà mới năm gian rộng rãi, hàng cột to lớn mà thường ít nơi còn có hoàn thành trên chính nền ngôi tam bảo cũ tọa lạc, ngôi nhà này được bố trí ba gian giữa thờ phụng các sư Tổ đã trụ trì chùa trong quá khứ, hai gian đầu sử dụng là tịnh thất có đầy đủ tiện nghi thông dụng.

Cũng những năm 2015 – 2016 ấy, khởi công xây dựng một lúc 2 công trình nhà Tổ và “Lầu Quan Âm” mới, một ngôi vị mà ở đây hình như chưa hề có. Lầu Quan Âm xây dựng nằm trong khu ao bên phải, phần cuối trước Tam bảo, nơi mà năm 2011 chi hội người cao tuổi thôn đã cải tạo, xây dựng bao quanh để xác định và ổn định phạm vi đất thuộc chùa quản lý. Công trình “lầu Quan Âm” cấu trúc hầu như hoàn toàn bằng bê tông cốt thép lợp ngói đất nung, mái có sáu múi cong trên cột vững chắc đứng trên nền lục giác đều. Toàn bộ trên nền hồ thả sen, có cầu nối ra vào và bố trí lối đi quanh hồ cho khách du ngoạn, chiêm ngưỡng, nguyện cầu hướng niệm đức Quan Âm bằng đá trắng đứng trên tòa sen đang giáo hóa, ban phước chúng sinh và tâm niệm từ bi hỷ xả … Nhà Tổ mới, lầu Quan Âm mới hoàn thành và đưa vào sử dụng, năm 2019 cũng như nhiều công việc đại sự trước, nhờ sự trợ giúp công của từ dân làng, sự cung tiến tiền bạc của khách thập phương qua khuyến cáo của nhà chùa, sự giúp sức của Phật tử và nhất là nguồn tài lộc từ các nơi thờ phụng mà chi hội người cao tuổi chuyển sang, cộng với sự phấn đấu của thầy trụ trì mà tại chùa Diềm lại tiếp tục xây dựng nên ngồi nhà bảy gian nhà gỗ lợp ngói mới dùng làm hội trường (nhà khách), nhà ăn, bếp nấu … mà trong sơ đồ chỉ dẫn gọi là “giải vũ” phía tây. Công trình hoàn thành thì việc sửa chữa lại khoảng sân hơn 400m2 trước Tam bảo lại được đặt ra và cũng hoàn tất sau thời gian ngắn.

Tóm lại, từ sau giai đoạn đổi mới của xã hội và sau khi bức tường phía đông khuôn viên chùa được tôn tạo theo phong cách mới vừa mỹ thuật lại thoáng đãng, mang hình thái kết nối cõi tâm linh, hòa quyện cùng trần thế lại trang nghiêm chốn cửa thiền ngay từ buổi của năm 2012 – 2014 thì chùa Hưng Sơn đã mang dáng vẻ phục hưng rõ rệt. Đến nay, trong sự điều hành, quản lý và chấp pháp Phật đạo, Đại đức Thích Quảng Hợp – Trụ trì chùa đã có nhiều sáng tạo, dần nâng cao vị thế chùa Diềm. Về chùa, Đại đức không những chăm lo cơ sở vật chất, duy trì, tổ chức các nghi lễ trong Phật giáo mà còn khơi dậy, tiến hành công tác thiện nguyện bắt kịp trào lưu xã hội. Năm 2020 một số vùng bị bão lụt, hứng nhiều thiệt hại, dân tình khó khăn, thiếu thốn đủ điều, nhà chùa Hưng Sơn đã tổ chức đoàn làm công tác thiện nguyện góp phần xoa dịu bớt phần nào nỗi đau của người dân gặp nạn. Và hiện nay trong chùa vẫn duy trì thường xuyên theo định kỳ hàng tháng vào ngày 03 âm lịch: tặng quà cho bệnh nhân tại khoa Ung bướu bệnh viện đa khoa Tỉnh Bắc Ninh.

Năm 2018, với vai trò dẫn dắt và cũng là chủ biên, Đại đức Thích Quảng Hợp cùng Phật tử tập hợp người cùng chí hướng, cảm tình quan điểm, cảm hóa sở trường đã xuất bản và lưu hành tập “Thơ Thường Thức. Trên nền tảng cây nhà lá vườn, cuốn thi ca tôn vinh vẻ đẹp, tình yêu quê hương đất nước, cổ vũ tâm thức và hành vi hướng thiện đã khiến đời sống văn hóa tinh thần nơi xóm làng trở nên tươi đẹp hơn, đằm thắm đượm màu sắc nhân văn hơn. Có thể thấy chùa Hưng Sơn đã và đang đi đúng hướng theo trào lưu chung của xã hội Việt Nam đổi mới. Tháng giêng năm Quý Mão, Đại đức Thích Quảng Hợp đã chọn và tiếp nhận đệ tử: Nguyễn Hoàng Anh sinh năm 1999, và Trần Văn Quân sinh năm 2001 cùng quê thuộc Huyện Thủy Nguyên – Thành phố Hải Phòng để chăm lo, dìu dắt và đào tạo nguồn lực tương lai…

Nam mô A – di – đà – Phật

Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nguyện cho từ bi, hỷ xả lan tỏa khắp thế gian này!

Viêm Xá ngày 08 tháng Hai (nhuận) Quý Mão (29/3/2023)

Tài liệu tham khảo:

  1. 1. Bản dịch từ bia đá: Hưng Sơn thiền tự bi ký
  2. Bản dịch từ bia đá: Bia ghi nhận công đức bản xã tạo bia năm Quý Hợi
  3. 3. Bản dịch bản dập chữ khắc trên quả chuông chùa Hưng Sơn đúc năm Phúc Thái thứ 7 (1649) hiện được lưu giữ tại thư viện viện Nghiên cứu Hán nôm ký hiệu 5279/ab
  4. Những ký ức về quá khứ bằng sự thật mắt thấy, tai nghe của cá nhân nhận thức và câu chuyện, truyền thuyết từ các bậc, thế hệ trước truyền lại.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kiến Trúc Chùa Hưng Sơn Xưa

Tác giả: Nguyễn Văn Màng – làng Diềm

Phần 1

Hưng Sơn Tư – Chùa Diềm cổ kính. Theo truyền thuyết của Đức Thánh Tam Giang thì chùa Diềm được xây dựng từ Thế kỷ thứ VI.

Chùa Diềm vốn có từ lâu đời, thuộc môn phái và quản hạt Lã tại chùa Bổ (huyện Việt Yên, Bắc Giang).

Địa điểm của chùa xưa kia ở Mả Bến (ngoài cổng Đông do lâu ngày bị hư hỏng nặng), do gần sông mỗi lần nước lũ tràn về chùa lại bị lụt lội, mưa gió bão bùng cho nên được di dời về trong làng. Ngôi chùa hiện tại được xây dựng vào năm Canh Dần (1610), địa điểm nằm trên trục đường làng sát ngã tư, liền kề với Đền Vua Bà, mặt trước theo hướng Nam, cách Đền Cùng giếng Ngọc vài trăm mét.

Truyền thuyết của các cụ trong làng từ đời này truyền sang đời khác là chùa Diềm có ở mả Bến vì vẫn còn có sự tích Bến Ông, Bến Bà. Bến Bà cho ni sư tắm, bến có hòn đá to dạng đá cuội to bằng cái chiếu sát mép sông Cầu xưa, gò Bến Ông cách gò Bến Bà khoảng 80m, ở đó vẫn có 8 hòn đá to xếp theo sườn gò xuống sông. Truyện kể rằng ai tìm thấy hòn thứ 9 đó là kho vàng người Tàu xưa cất khi về nước không kịp mang về, nếu tìm thấy vàng thì tìm thấy cổng chùa mả bến.

Đến năm 1964 – 1965 bộ đội công bình Trung quốc sang giúp Việt Nam làm đường tàu và bắc cầu bằng gỗ qua sông cho 2 tàu qua khi cầu sắt trúng bom. Khi người Tàu đến họ ở chùa, ở đình và một số nhà dân. Trong ngõ nhà tôi có nhà cụ Cước, có con trai tên là Câu, đối diện nhà tôi là Nguyễn Văn Màng. Họ có bàn đá quay tay để mài cuốc, xẻng. Tôi có sang chơi và nhờ mài hộ con dao cùn. Khi mài xong người Trung Quốc hỏi tôi: Em có biết các cụ kể cho em nghe là cổng chùa mả bến ở chỗ nào không? Tôi hỏi: Anh tên là gì? Anh trả lời tôi: Anh tên là Thằng Chúng Sầy, sống ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Trước khi sang đây anh được học tiếng từ chuyên gia Việt Nam. Tôi hỏi: Anh hỏi Cổng chùa mả bến để làm gì? anh trả lời tôi là: Thần phả bên anh lâu ngày chữ còn chữ mất không rõ và địa thế thay đổi. Tôi trả lời: Em không biết nhiều, chỉ biết là có bến bà là cho sư ni tắm, bến ông là cho sư nam tắm, hiện giờ còn 8 hòn đá xếp thẳng nhau từ sườn gò xuống bến sông, ai tìm thấy hòn số 9 là nơi cất vàng. Thế là mấy ngày sau đào tung cái gò ấy lên và đắp một cái ụ pháo đặt súng trung liên, họ nói với tôi là để bắn pichi (tức là để bắn máy bay Mỹ).

Tác giả Nguyễn Văn Màng đang trao đổi bài viết cùng Ban biên tập Sách Chùa Hưng Sơn, 2022. Ảnh: Văn Thành

Tương truyền trước đây chùa có trăm gian, tường chùa xây toàn bằng đá. Đôi câu đối còn lại ở chùa này đã ghi lại cảnh làng Diềm xưa:

Thạch tại Hưng Sơn thành giác ngạn

Xá hòa phong cảnh đắc viên hoa

Dịch ý:

Đá chùa Hưng Sơn thành bờ giác ngõ

Làng chan hòa phong cảnh đẹp như vườn hoa.

(Chùa Mả Bến xưa xây giáp sông, ba bề là nước khi có nước lũ)

Phần 2

Chùa Diềm được trùng tu vào thời Lê

(1649 – 1959)

Tài liệu chính xác nhất về quá trình tồn tại của chùa Diềm được lưu lại qua minh vă trên quả chuông đúc năm Phúc Thái thứ 7 – 1649 còn lưu lại hình ảnh bản dập, do Học viện Viễn Đông Cổ Pháp thực hiện trước năm 1945, hiện được lưu trữ tại Thư viện nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu 5279/ab.

Chữ khắc trên chuông rất đẹp, đương nhiên chuông này được đúc khá công phu và hoàn mỹ. Đây là một trong số không nhiều thời Lê, giữa thế kỷ XVII còn lại ở nước ta.

Quả chuông của chùa Diềm đúc năm 1649 thời vua Lê Chân Tông làm vua (1643 – 1649), niên hiệu Phúc Thái, duy hiệu được vua cha nhường ngôi từ lúc lên 13 tuổi, lấy hiệu là Chân Tông[11]. Khi vua mất về chùa Diềm tu tên là Lê Thị Ngọc Liên, hiệu diệu Thái người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam, nước Đại Việt. Sống ở Trung Đô Vương phủ nội cung tần và tang nữ xuất gia trụ trì chùa Hưng Sơn là Đỗ Thị Ngọc Cảnh, hiệu diệu Như cùng bỏ tiền nhờ thợ đúc thành phát khí. Lập đàn tràng mở hội quyên góp, thế là tài vật khắp nơi đổ về, đồng chất đống. Khi đúc xong quả chuông nặng tới nghìn cân có dư, đúc chuông lớn chùa Hưng Sơn cổ nhân có câu: “Hễ nghe thấy tiếng chuông thì phiền não tiêu tan, trí tuệ trường tồn, bồ đề sinh sôi, địa ngục siêu thoát, nguyện long thành phật đạo cứu độ chúng sinh. Cầu cho chúng sinh này siêu pháp giới, khai quang u ám chiếu rọi quanh minh, tam đồ bát nạn”. 4 Để trả lời cho câu hỏi phần đông không biết vì lý do gì mà quả chuông to ở chùa Diềm cùng những quả trăm cân đi đâu mất.

Năm 2007 – 2008 nhà chùa Thích Đàm Thị Thủy cùng dân làng và khách thập phương, Hội người cao tuổi nhờ lộc của đền Giếng công đức gửi vào đúc chuông tới trăm triệu đồng đúc quả chuông. Hôm đó người làng Diềm có ông Nguyễn Văn Trối ra xem kể cho tôi nghe.

Năm 1944 – 1945 những năm đó cào ngói đình chùa và bão lụt 1945 Nhà nước kêu gọi các nơi đóng góp đồng và gang gửi lên vùng tự do đúc đạn du kích, cho người chèo lên tầng 2 của gác chuông chùa chặt xà cho chuông rơi xuống đất. Chùa Diềm có 2 quả, đình – đền có mỗi nơi 1 quả, tổng cộng là làng có 4 quả. Anh em chúng tôi khiêng xuống đồng Dâu, công đoàn Nhà máy giấy Đáp Cầu, người làng Diềm cho dầu máy lên, 4 quả lăn xuống mảng và kéo lên vùng tự do đúc lựu đạn và đạn.

Còn một bia đá nữa đi đâu mất? Năm 1958 cả làng vào Hợp tác xã, phá dỡ nhà Tổ và nhà Trai để làm sân đập lúa cho 3 tổ. Chân của bia đá đem ra làm cột chắn không cho xe vào làng.

Năm 2003 tôi phát hiện thấy mảnh trên của bia hình bán kính và một phần của thân bia, vẫn còn nguyên, có 5 chữ nổi bằng chữ Hán nằm ở hành lang của sân đá bóng trước đình, tôi hỏi cụ Từ tên là Nguyễn Bá Ý, cụ trả lời là đây là mảnh vỡ phần trên của bia đá chùa Diềm. Tôi nhờ anh Lương cùng với mấy người ngồi gần đó khiêng lên xe cải tiến và kéo về vườn chùa. Nhà chùa bảo tôi đổ để cạnh gốc nhãn. Cùng hôm đó tôi cùng một số người trong Ban chấp hành đào tiếp chân bia đá chôn chắn không cho xe vào làng (nay là chân bia ở bên Đông trong chùa). Trong lúc ngồi uống nước ở đình làng, tôi có hỏi ông Toản là ông có biết phần dưới của bia đá và đế của bia đá 5 ở chùa ở đâu không? Ông trả lời tôi là: Họ khiêng ra lớp tát ao làng chắn nước khi tát cá thân và để bia ở đó, mỗi khi tuột cuốc tôi lại gõ vào đầu rùa để chêm cuốc, nay chìm ở đó sâu lắm rồi. Đó là chuông và bia đá bị mất.

Địa thế chùa Hưng Sơn trong sách Tam Tổ Thực Lục, danh sư Pháp Hoa (1284 – 1330) đã tổng kết. Khi đã ngộ hiểu chính tông rồi thì chọn cảnh chùa mà trụ trì, tránh những nơi nước độc non thiêng. Cảnh có bốn điều: 1 là nước; 2 là lửa, 3 – lương thực, 4 là rau. Đây là một điều cần, lại cũng không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian, gần thì ồn ào, xa thì không ai giúp đỡ cho. Khi xét về vị trí thì chùa Diềm không ở gần dân mà cũng không xa dân. Bên trái có hồ nước rộng, bên phải có núi Kim Sơn và Kim Lĩnh, quay đầu về chầu; phía trước có núi Dạm cao chót vót, lâm minh đương chùa Diềm quay hướng Đông Nam, hướng Đông Nam là hướng của các thần, là hướng mang sinh lực của vũ trụ đến cho con người. Phật ở phương Tây nhìn về phương Đông để cứu chúng sinh. Hướng Nam là hướng đầy dương tính, sáng sủa, mát mẻ, tránh được giá rét đồng thời đó là hướng của các bậc đế vương, thánh nhân. Quay về phía Nam mà nghe lời tấu bày của thiên hạ, cảnh Đức Bồ Tát quay về hướng Nam để nghe lời kêu cứu của chúng sinh trong kiếp đời tục lụy, dùng pháp lực vô biên, vô lượng mà cứu vớt.

Trong chùa Diềm còn giữ được hai tấm bia đá làm năm Chính Hòa thứ 4 (1683) và năm Cảnh Hưng 38 (1777) có ghi dấu quá trình tồn tại và trùng tu chùa. Với những bằng chứng xác thực trên có thể khẳng định sự hiện diện của chùa Diềm có trước năm 1649.

Trong kiến trúc truyền thống của người Việt thì cảnh quan, cây cỏ hướng là những nhân tố quan trọng, chúng phản ảnh quan niệm sắc thái, văn hóa của dân tộc. Việc chọn đất xây dựng thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy cho rằng vị trí chỗ làm, thế đất có ảnh hưởng đến con người sống trên nó.

Bia thứ nhất chủng tu chùa Hưng Sơn năm thứ 4, niên hiệu Chính Hòa (1683) lập bia hiện nay.

Mặt 1 chủ hưng công, gồm 3 gia đình cả chồng và vợ, con gái nuôi. Trước đây vào năm Kỷ Mùi trùng tu bên trong chùa cúng tiền mua gỗ là 30 quan, đến năm nay cúng tiền mua đá 110 quan.

Hiến ruộng cho xã nhà làm ruộng giỗ gồm 20 thửa ở xứ đồng thượng giá, còn lại hai thửa ở xứ đồng mới thượng, cúng vào chùa làm của Tam bảo để gửi giỗ cho các vị tiên tổ, là cao tổ gồm 17 vị tiên tổ là cao tổ.

Công đức vốn trước gồm 2 gia đình: 1 gia đình có cả con trai làm gác chuông cùng với các việc trong chùa xong chưa được ghi công. Đến năm nay Ngô Tĩnh, Ngô Hữu lễ cùng vợ và con gái, con rể vốn trước đã lát đường, xây Phật điện 23 quan. Đến năm Ất Dậu chủng tu bên trong chùa, tiền mua kèo cột, trả tiền công thợ hết 12 quan. Đến năm nay lại công đức 10 quan tiền, 1 thửa ruộng xứ Chiềng giá, 1 thửa ở xứ gồ bến ông. Như vậy mặt 1 năm Quý Hợi năm thứ 4 niên hiệu Chính Hòa (1683) lập bia.

Như vậy mặt 1 của bia có hai dòng họ Nguyễn và họ Ngô công đức tiền mua gỗ, mua đá, trả tiền công thợ – tổng cộng hết 185 quan và 25 thửa ruộng bằng 13 mẫu ở trước 5 cổng làng. Mặt 2 khoảng 90 người công đức.

Bia thứ 2 tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) triều Lê có tên là Tỳ Khưu Hải Thuần Thích Hạo Hào trụ trì chùa Hưng Sơn, xã Viêm Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Sinh năm Đinh Hợi, quê tại xã Vân Khám, huyện Tiên Du. Thủa nhỏ xuất gia đi tu chùa Bảo Quang trên núi Lãm, được sư thầy truyền cho tâm ấn. Bấy giờ Tỳ khưu giữ trọn đạo hiếu với thầy an cư nơi định thổ, đến năm Tân Mão bản xã chấp nhận Tỳ khưu được khói hương thờ phụng Phật Thánh để vận ước thêm lâu dài.

Vào năm Nhâm Thìn, nghĩ thấy trong chùa cột nhà hỏng nát, vườn tược cỏ mọc um tùm, điện thờ lộn xộn, thật chẳng hợp với quy mô khi trước, tăng bèn phát đạo tâm, cùng nhân dân chung góp tài lực rồi quyên mộ khắp các tín thí. Thuê thợ trùng tu thượng điện, thiên hương tiến đường, hậu đường, gác chuông, tam quan, bồi nền san móng, ngói lợp, gạch xây câu đối, hoành phi sơn son thiếp bạc, bàn ghế bày biện, chạn cột vẽ tường, lại tạo mới tượng phật như bức Di đà lớn, Quan âm thế chí, Thánh giả A nan Già Lam, sơn son thiếp bạc đẹp đẽ lưu truyền đời sau. Gỗ lim chất đống tập hợp thợ đến hoàn tất. Công việc xong xuôi cùng mọi người vui mừng cảnh mới. Đến ngày lành tháng 6 năm Đinh Dậu muốn để người đời sau biết sự việc qua tấm bia (đá) ghi lại công việc lâu dài, cho tiếng danh thêm tỏ, vận nước thêm vững vàng, dân khang vật thịnh.

Kệ minh viết:

Phạm Vũ Hưng Sơn thế chênh vênh

Phong cảnh trang nghiêm muôn việc thành

Khai sáng trùng tu công còn đó

Bia đá lưu truyền khắc tính danh

Những người hưng công – Tăng trụ trì Tỷ khưu Hải Thuần Thích Hạo Hạo, các môn đồ Sa di tự tịch tọa, tự tịch võng, tự tịch mẫu, tự tịch tráng, tự tịch hải, tự tịch xuân, tự tịch tiền, tự tịch tỳ, tự tịch nhâm, tự tịch nhàn?

Những người bản xã Hưng Công mặt 1 bia số 2 (mặt 1: 91 người, mặt 2: 100 người).

Chùa có quy mô kiến trúc bề thế đẹp đẽ. Diện tích nội tự trước đây có hơn một mẫu Bắc bộ, xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, toàn bộ kiến trúc hình thanh tòa ngang, dãy dọc, gồm 9 tòa nhà, tổng cộng 70 gian. Có 2 cổng chính phía trước là cổng Tam quan, chỉ mở khi có lễ hội. Mặt phía Đông có cổng ra vào thường xuyên, từ đấy có lối đi thông lên nhà Tổ, xuống nhà trai, xuống Tam bảo, xuống gác chuông ra cổng Tam quan.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và con người, ai muốn vào thăm cảnh chùa từ đường cái làng, phải qua một cái rãnh thoát nước từ ao chùa qua cống đường làng chảy vào khu vực có ruộng của chùa. Từ ruộng nhà chùa chảy vào hồ làng trước đình, từ hồ lại chảy qua cống đường làng ra cánh đồng chiêm (nay là hồ điều hòa và Nhà hát Quan họ).

Vào chùa thì phải bước qua một phiến đá xanh to bằng cái chiếu bắc qua rãnh thoát nước. Bước vào cổng Tam quan của chùa Diềm là một biểu tượng của Phật triết sâu sắc. Mỗi khi chúng sinh bước qua Tam quan chùa thì phần nào đã mang tâm Phật, ít nhiều giác ngộ được cái vi diệu của đạo phát. Tam quan thực chất là Nhất chính đạo, ba cửa nhưng chỉ có một con đường – con đường đi đến thế giới cực lạc và đến gác chuông hai tầng, cột bằng gỗ lim. Nhà có tám mái tức là cả hai 9 tầng đều là 7 gian. Tầng trên gác chuông bên Đông treo chuông, bên Tây treo trống, dưới tầng 1 bên Tây có ngai thờ và bát hương thờ Thành Hoàng Ngũ Vị Bảo Hựu giỗ ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm. Ngày giỗ ngày xưa làng lại mang xôi, gà ra chùa, đội tế nam làm lễ tạ, hiện nay văn tế vẫn còn lưu trữ ở đình.

Từ gác chuông lên sân của Tam bảo sân lát gạch cổ 30cm x 30cm, dày 5cm. Tam bảo có 7 gian, gian giữa có chuôi vồ dài ba gian. Chùa Diềm có khá nhiều tượng Phật trong đó đa phần có niên đại khá sớm khoảng thế kỷ XVII – XVIII, với kỹ thuật tạo tác tinh xảo, giá trị nghệ thuật cao, gây ấn tượng mạnh mẽ. Mỗi bức tượng là một tác phẩm điêu khắc tuyệt vời. Có lẽ hậu thế chúng ta như được tiếp xúc với quá khứ, gặp gỡ tổ tiên khi vào chùa thăm Phật để tâm hồn cùng với khói hương lan tỏa:

Hưng Sơn chùa Soi

Trần thuộc Nam phương

Phong cảnh hoàn hảo

Chế độ kỷ cương

Phật thần hiển ứng

Phù hộ quê hương

Trước sông sau núi

Trong ngoài trang nghiêm.

Từ Tam Bảo lên sân nhà trai cũng lát gạch. Nhà trai có 7 gian bằng gỗ lim, 2 gian buồng đầu hồi là nơi ở của sư cụ trụ trì và phòng học trau dồi kinh pháp của các sư tăng; 5 gian giữa là nơi thụ trai (phòng ăn) của các sư sãi; gian giữa là để sập gụ và tủ chè, trên sập có để một bức ảnh truyền thần to hiện nay 10 vẫn còn là ảnh sư Ông (dân thường gọi sư cụ quản tăng) – sư Tổ của chùa Diềm, giỗ vào ngày 25 tháng 9 Âm lịch hàng năm. Năm 2003 sập gụ ông Vượng chữa lại để ở nhà Mẫu, buồng bên Đông. Cạnh gian giữa là 2 gian mỗi bên là bàn ăn và cũng là nơi uống nước.

Ông Nguyễn Văn Màng đứng vị trí thứ 6 từ phải qua trái, hướng ngoài vào, nhân chụp ảnh Hội nghị viết sách Chùa Hưng Sơn, 2022. Ảnh: Phật tử

Trước mặt nhà trai có sân hình chữ U, bao quanh hậu bầu Tam Bảo. vừa là sân chơi vãn cảnh trong chùa. Tả hữu hai bên là hai dãy nhà khách, mỗi dãy 7 gian. Hai gian đầu tiếp giáp Tam Bảo, bên Đông thờ Đức Thánh Chấn, bên Tây thờ Phật Bà Quan Âm. Giáp Tam Bảo có một cái bể to hứng nước mưa, mỗi dãy còn lại 5 gian bố trí làm nhà tiếp đón các sư ni từ các nơi về chùa thụ giới, lễ phật. Phía sau cùng là nhà Tổ 5 gian là nơi thờ phụng các vị sư Tổ trụ trì trong chùa; bên Tây thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, bên Đông thờ các cụ Hậu và gian nối liền bên Tây là 3 gian bếp. Ngoài ra còn các công trình phụ như: chuồng trâu, chuồng lợn. Bên Đông nối tiếp là 3 gian nhà kho và cối xay giã, trước mặt nhà Tổ có một cái sân rộng, hai bên Đông Tây có hai dãy nhà, mỗi bên có 4 gian. Bên Tây 3 gian bầy cỗ khi có lệ, 1 gian cổng ra vườn có chuồng trâu và chuồng lợn. Bên Đông có 3 gian têm trầu cho các vãi và 1 gian cổng chùa nằm ngang, chiều dài chia làm 2 gian, chiều cao là 2 tầng: tầng 1 quấn vòm tầng trên lợp ngói mũi, nền cổng lát đá xanh hình khối chữ nhật, tường ngăn giữa hai gian tầng 1 là 2 cánh cổng chùa. Trước cổng chùa là đường cái làng có 1 cây muỗm to hai người ôm, cây cao, bóng trùm lên cả tầng 2.

Toàn bộ kiến trúc khu chùa đều làm bằng gỗ lim, tường gạch mặt tiền có 4 tòa chính đều đóng cửa bức bàn, nhà nọ cách nhà kia bằng một khoảng sân hợp lý, vừa liên hoàn khép kín, vừa có không gian thoáng đãng. Các thềm nhà trước, sau, ngang, 11 dọc đều lát ghép bó vỉa bằng các phiến đá xanh cỡ lớn tạo thành các đường viền xung quanh đẹp bền vững, chắc. Đầu hồi cổng phía đường cái mép cổng trên đắp mặt con hổ phù to bự. Trụ trì ở chùa là người có phẩm chất cao nhất, là cụ quan tăng. Tiếp đến là sư cụ trụ trì là Nguyễn Văn Lộc, dưới nữa là các sư ông, sư thầy và các tiểu. Số lượng người nhà chùa có 13 mẫu ruộng tư có thợ cày, người cấy. Thu hoạch hàng năm đủ chu cấp cho sư, tiểu và các chi phí cho các hoạt động thường xuyên của chùa. Ngoài các sư tiểu tại vị thường xuyên, lúc nào cũng có 5 – 7 người giúp việc.

Chùa Diềm còn có chức năng đào tạo bổ túc đạo pháp cho các sư thầy, sư ni ở chùa khác về thụ giới. Từ sau năm 1945 dân tình khó khăn, toàn bộ sức người sức của dồn vào công cuộc kháng chiến, các sinh hoạt tín ngưỡng chùa không còn duy trì thường xuyên. Sư cụ Nguyễn Văn Lộc rời khỏi chùa Diềm đến trụ trì chùa Cô Mễ, bị giặc bắn chết ở đây. Các sư tiểu khác thì mỗi người một nơi, chùa còn sư ông Nguyễn Văn Vĩnh trụ lại được ít năm thì xuất giới, ruộng tự không có người cày cấy, làng xã xung công đem chia cho người thiếu ruộng. Do không có người trông nom bảo quản, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng và không có kinh phí để sửa chữa, tượng Phật mấy phen lụt lội làm trôi nổi, thất lạc, mất mát nhiều. Toàn bộ khu nhà gác chuông, nhà Tổ và tiếp là nhà trai dỡ bỏ hai gian hồi Tam bảo cũng dỡ bỏ 2/3 chùa chia cho 8 hộ làm nhà và xây trường tiểu học. Chùa Diềm xưa chỉ còn 5 gian Tam Bảo cũ nát.

Phần 3

Chùa Diềm (Tức Hưng Sơn Tự) mới ngày nay

Chùa được kiến trúc hình chữ Đinh, được bắt nguồn từ mùa Xuân năm 2002. Gia đình ông Nguyễn Tiến Vượng ở 108 Bà Triệu, Hà Nội về lễ cầu tự ở đền Giếng được giới thiệu ông về chùa Diềm lễ và thăm quan. Ông thấy cảnh chùa có nhiều Phật cổ, chùa thì dột, hư hỏng nhiều, không có người trông nom hương khói. Ông có về truyền lại cho sư cụ trụ trì chùa Chân Tiên ở 151 Bà Triệu nghe tên là Thích Đàm Nhuận. Sư cụ ngỏ ý mời chính quyền địa phương và đại diện Hội Người cao tuổi sang chùa thăm quan và hội đàm.

Đoàn chúng tôi gồm có ông Liễn, ông Đoàn, chính quyền địa phương, Hội NCT gồm ông Sự, ông Nghiêm là Hội trưởng và hội phó cùng một số thành viên gồm cụ Từ, cụ Hồi, ông Sở, ông Hòa và tôi là ông Màng.

Qua lời thăm hỏi xã giao, nhà chùa mời đoàn chúng tôi uống nước. Sư cụ trình bày. Theo lời trình bày của chú Vượng – một nhà doanh nghiệp chuyên phục chế vật và đồ thờ cho tôi nghe thấy cảnh chùa Diềm mà lòng xót xa, cảnh nhà có 4 chị em đi tu, sư cụ hỏi: Chùa Diềm không có sư từ bao giờ và có phải dân đuổi sư không?

Tôi là người hay ra chùa thăm sư cùng với bác họ tôi, tôi trả lời thay đoàn: Chùa Diềm theo môn Lã, không phải dân làng tôi đuổi sư mà sư phá giới về quê Long Tửu, Gia Lâm cùng với 14 người dân bà bán bánh chay có chồng theo Pháp đi Nam, sống chung sinh con và làm ruộng.

Đại diện chính quyền địa phương mời sư chùa Chân Tiên sang chùa Diềm tham quan, hai bên đi lại tất cả là 4 lần và đi đến kết luận: Nhà chùa cử ông Nguyễn Tiến Vượng – một nhà doanh nghiệp về chùa làng Diềm xây dựng.

Đầu tiên gia đình ông công đức xây 7 gian nhà Tổ bằng gỗ xoan, trùng tu và sơn toàn bộ Phật tổ chùa, công đức toàn bộ Phật mới Tam tòa Thánh Mẫu và nhiều pho Phật khác hiện ngự ở gian giữa. Tất cả các ban thờ đều được sơn son thiếp bạc và bàn ghế nội thất đầy đủ. Ngày khởi công xây dựng là ngày 08/8 năm Quý Mùi 2003, khánh thành ngày 25/3 năm Giáp Thân 2004. Thấy chùa mới xây dựng đẹp, chính quyền cùng bàn với dân làng bán 5 thửa đất ao được hơn 1 tỷ đồng để xây tiếp 5 gian nhà Tam bảo mới bằng gỗ căm xe dầu Nam phi. Xây dựng không tiếp tục được nguyên nhân là hết khóa của người lãnh đạo chính quyền.

Tháng 4/2004 bầu Ban lãnh đạo mới, người lãnh đạo có tâm huyết làm nhà Tổ thì cấp chính quyền không cử và đưa người khác lên thay 2 khóa, mỗi khóa 1 năm là 2004 và 2005 cũng không xây dựng được chùa. Lý do là có một số ít người có tư tưởng khuông muốn xây dựng tiếp, chính quyền đã mang làm việc khác. Ban chấp hành Hội NCT cùng đại đa số giới các cụ ông và các cụ bà đã mở Hội nghị diên hồng nhiều lần mời chính quyền ra họp. Một số ít người đã đứng lên đả đảo tôi và BCH Hội NCT, lý do tôi đứng lên giải trình về thời cơ và thuận lợi để làm chùa. Lúc này cấp trên đã hiểu và lòng dân đã quyết, tháng 5/2005 dân làng bỏ phiếu cho người có tín nhiệm cao 15 nhất là ông Nguyễn Đức Liễn trúng cử. Là người đã đứng lên đại diện cho dân giải trình, cuối cùng làm tiếp Tam bảo năm 2006 vốn tự có của dân thôn, kết hợp với lòng hảo tâm của các tập thể, hội đồng niên, đồng ngũ, các gia đình, cá nhân, khách thập phương và gia đình ông Nguyễn Tiến Vượng khởi công xây dựng ngày 4/7 năm Bính Tuất 2006.

Lúc này Hội NCT đã mua được 10 vạn gạch và 10 tấn vôi. Gạch xây hết, vôi còn nằm lại ở vườn cây ngày nay. Khánh thành xây dựng ngày 20/12 năm Bính Tuất, nhiệm kỳ 2006 – 2008.

Ngày khánh thành nhà Tổ tháng 3/2004 Giáp Thân, rất vinh hạnh cho người dân làng Diềm đã 50 năm vắng bóng sư trụ trì hương khói. Ngày 25/3/2004 khánh thành nhà Tổ, cũng là ngày 25/3 năm đó chùa Diềm lại bắt đầu có sư về trông và hương khói tên là Tỷ khiêu ni Thích Diệu Thủy từ chùa Chân Tiên 151 Bà Triệu do sư cụ Thích Đàm Nhuận tin tưởng pháp tôn đưa về.

Từ 15/5/2008 đến 15/4/2010 trong khóa này nhà chùa mở hội đúc chuông vốn hiện có bằng tiền lộc của đền Giếng, tiền của nhà chùa, tiền của khách thập phương, vàng của chùa Chân Tiên và vàng của người dân bỏ vào lò đúc. Cũng năm đó nhà chùa mua trống và dựng giá trống, giá chuông. Quả chuông đúc xong nặng hơn 500kg, tiền chuông là hơn 100.000.000đ, khóa này bà Ngô Thị Chiến làm Hội trưởng, tôi làm Thủ quỹ.

Từ 15/5/2011 đến hết nhiệm kỳ năm 2012, khóa này do ông Nguyễn Văn Lộc làm Hội trưởng, tôi – Nguyễn Văn Màng tiếp tục làm thủ quỹ khóa nữa.

Tết 2011 anh Trung người làng Diềm – con ông Ngô Văn Lại ra vãn cảnh chùa đầu xuân, qua thăm Tam Bảo thấy ở chùa phật cũ bong tróc nhiều, anh đề nghị với nhà chùa là anh ủng hộ 50.000.000đ để sơn sửa Phật. Thế là nhà chùa lại cùng họp bàn với Hội NCT thống nhất làm bệ phật lại, trùng tu, sơn sửa thay thế một pho mục hỏng, trùng tu một nửa người đằng lưng pho Phật Tam Thế và sơn thiếp bạc mới. Chuyển chỗ 4 pho phật mới tạc chưa hoàn chỉnh là ông Vượng công đức 4 pho bị mất trộm đầu năm 2005 là 3 pho Tam thế, 1 pho Quan Âm Thế Chí đến nơi làm mới. Lý do khi 4 pho hoàn chỉnh là chủ doanh nghiệp lại bán cho người khác, làm mới 6 pho phật bát vị kim cương, sửa binh khí trên tay hai pho Phật Hộ pháp cũ thành hai pho Bát vị Kim Cương. Mời nghệ nhân thợ Bát Tràng về đắp mới hai pho Hộ pháp. Nhà chùa Đàm Thị Thủy 1 pho, gia đình ông Vượng 1 pho công đức. Sửa tay mới pho Đức Thánh Trần bị mối xông, sơn son thiếp bạc Phật và ngai Đức Thánh Trần, sơn thiếp bạc ngai Đức Ông.

Tiếp theo tôi lại đề đạt với nhà chùa cùng BCH Hội NCT, hội trưởng là ông Lộc có trách nhiệm đề nghị với chính quyền địa phương đồng ý cho làm tiếp những khoang chưa có hoành phi, câu đối, mành rủ. Khoang Đức Ông, 2 khoang Hộ pháp và khoang thầy Đường Tăng. Nhà chùa lại khuyến cáo ra khách thập phương về lễ ở đền Giếng, có gia đình ông bà Dậu ở Hà Nội công đức khoang Đức Ông giá tiền là 41 triệu đồng/1 khoang, chị Phương người làng Diềm là con dâu ông Huề công đức 2 câu đối và 1 hoành phi gian Tam bảo giữa trị giá 21 triệu đồng. Cũng khóa đó mua sắt thép và tre về đổ và đóng cọc sắt và tre 3 vế, xây tường cao. Nhà chùa làm bệ phật thờ bằng gỗ 17 mít và sơn thiếp bạc bàn thờ khoang Đức Ông, bàn thờ Phật khoang thầy Đường Tăng gia đình ông Vượng công đức. Trong 2 khóa tôi làm thủ quỹ (2008 – 2010 và 2011 – 3/2013) tôi đã chuyển vào chùa bằng tiền lộc của đền Giếng là hơn 600.000.000đ vào xây dựng chùa.

Nhưng đáng buồn là khóa này sư đi chữa bệnh và đòi chuyển đi nơi khác, nhất quyết không trụ trì chùa nữa. Tôi hỏi lý do tại sao nhà chùa lại quyết tâm đòi đi như vậy, thầy hãy cho tôi xem họ là những kẻ xấu viết thư bỏ vào hòm công đức ý nghĩa ra sao? Thầy bảo là: Thị Màu còn minh oan được chứ tôi thì không thể minh oan được. Họ ghép cho tôi là kẻ thông đồng với kẻ lấy trộm phật năm 2004 – 2005 và một số tội vu khống khác. Còn tôi và ông hội trưởng – những người mới về hưu gán cho cái tội là xây dựng lắm tham ô nhiều. Rất may cho chúng tôi và cả BCH khóa 2011 đến hết 2012 là công an kinh tế thành phố kết luận chỉ rút kinh nghiệm để khóa tiếp theo làm đúng về kế toán chi tiêu của Bộ tài chính kế toán Nhà nước.

Ngoài ra khóa tôi làm thủ quỹ 2 khóa còn đề đạt và chuyển tiền của nhà đền vào xây dựng nhà vệ sinh ở nhà thờ quan họ, mua 3 bộ tràng kỷ bằng gỗ cho 3 nơi: Đình – Đền giếng và đền quan họ. Phục chế kiệu Long đình sơn son thiếp bạc cùng với tỉnh bỏ tiền trùng tu hậu bầu ở đình và xây dựng nhà vệ sinh ở đình, đền Giếng. Tôi đứng thi công nhà Mẫu, động Sơn trang và nhà kho, nhà ở cho bảo vệ ở đền Giếng …

Khóa tiếp theo 2013 – 2015 thời gian này là ông Trần Văn Vạn làm Hội trưởng đưa tiền của nhà đền khóa trước giao lại sơn tiếp 8 pho tượng phật bằng gỗ mít, lúc này đã khô kiệt và 18 2 pho Hộ pháp xây bằng gạch cát xi và xây tường vế đường cái trang trí lại.

Tháng 7/2014 thầy Thích Quảng Hợp về trụ trì, hương khói chùa Diềm, mấy ngày sau tôi ra thăm nhà chùa Thích Quảng Hợp. Là hiện nay ở dưới hồ làng ngâm rất nhiều gỗ bạch đàn lá to và bạch đàn lá nhỏ, nhà doanh nghiệp mộc phục chế đồ cổ nói với tôi đây là lim đồng bằng. Qua thực tế chúng tôi đã sử dụng làm việc công, riêng gỗ cứng và rắn như gỗ lim lại không bị mối ăn và tám khối gỗ lim đã xẻ thành khí để làm nhà các quan ở đền Giếng nhưng chính quyền không cho làm, mang về để ở sân chùa. Qua quan sát thực tế khi tát cá hồ làng, Thầy chùa động não đề nghị với chính quyền địa phương và Hội NCT đều thống nhất cao là trùng tu nhà Tam bảo cũ thành nhà Tổ hiện nay, rất đẹp và khang trang, cổ kính, mọi người dân cũng như khách thập phương đều khen và kính nể thầy. Khởi công xây dựng nhà Tổ ngày 24/4/2015, ngày khánh thành năm 2015. Cùng với ngày 24 tháng 5 năm 2015 khởi công xây dựng lầu Quan Âm giữa ao của nhà chùa Diềm. Anh Chung (con ông Lại) làng Diềm công đức pho Phật bằng đá cảm thạch ngự trên lầu. Khóa 2015 – 2017 ông Ngô Công Bái làm Hội trưởng NCT thôn và tiếp năm 2018 nhà chùa lại khởi công xây nhà bếp, nhà ăn 7 gian tiền vốn của nhà đền để xây dựng 3 công trình trên, tiền lộc của đền Giếng gửi vào hơn 2 tỷ đồng và tiền của Thầy chùa, tiền của nhân dân và khách thập phương công đức.

Năm 2019 nhà chùa lại khởi công tiếp lát gạch lại toàn bộ sân chùa bằng tiền của Thầy chùa, tiền công ủi sân của thôn, tiền công đức của dân thôn và khách thập phương để tôn tạo 19 vườn chùa như một công viên bách thảo nhỏ trong chùa. Chùa đẹp và khang trang như ngày nay – một công trình thế kỷ kéo dài mất 17 năm xây dựng và tôn tạo.

Hoàn thành viết bài ngày 21/3/2023 về chùa Hưng Sơn hình thành xây dựng xưa và nay. Xin mời quý khách đọc và tham khảo cùng tôi để cho cuốn sách viết về chùa Diềm được hoàn hảo hơn.

 Xin cảm ơn!

Tài liệu tham khảo:

  1. Theo lời kể của các cụ cao niên trong dân.
  2. Bản thân nhận biết từ lúc tôi 6 tuổi theo bác ra chùa chơi, nay tôi 78 tuổi.
  3. Lịch sử Đảng bộ thành phố Bắc Ninh.
  4. Các triều đại Việt Nam (sách).
  5. Theo Thông báo Hán Nôm học 2003, tr. 377 – 381.
  6. Hai bia đá của chùa Hưng Sơn; người dịch: Nguyễn Thị Dương – Lê Văn Sơn, Người hiệu đính: Đinh Văn Minh.
  7. Theo tài liệu của ông Nguyễn Văn Lợi – Cục trưởng cục an ninh
  8. Tham khảo thợ cày người làng Xuân Ái cho Sư Lộc.

Số Liệu Cung Cấp Niên Đại Xây Dựng Cụm Di Tích Làng Diềm

Nguyễn Văn Chuộng [12]

Ngày 10 tháng 08 năm 2015

  1. Đình làng Diềm thôn Viêm Xá

Niên đại xây dựng đình được ghi rõ hai câu đầu. Đình làng từ triều đại nhà Lê Trung Hưng dưới vua Lê Hy Tông niên hiệu chính hòa thứ 13 cũng là thời chúa Trịnh Căn thứ 11. Đình được xây dựng ngày 25 tháng 06 năm Nhâm Thân (Dương lịch 1692).

  1. Cây hương bằng đá trước Đình
  • Niên đại được ghi ở lòng giữa cột đá.
  • Ngày dựng cây hương là ngày 09 tháng 08 nhuận năm Tân Mùi (Dương lịch 1691).
  • Cây hương có trước đình một năm.
  1. Cối đá (hay chậu) để vo gạo nếp
  • Địa điểm Đền Cùng Giếng Ngọc
  • Niên đại được ghi ở vanh ngoài. Cối đá ở đây từ ngày 15 tháng 08 nhuận năm Tân Mùi (1691).

Khi tìm hiểu niên đại của khối đá này, tôi đã báo cáo Bộ văn hóa ngày 01/05/2014 về việc tôi đã tìm được niên đại của cối đá, đồng thời trong tháng 05 Cục bảo vệ di sản văn hóa, thuộc Bộ Văn hóa cũng đã có công văn giao cho Sở văn hóa tỉnh Bắc Ninh kiểm tra và có nhiệm vụ quản lý cối đá này.

  1. Niên đại xây dựng Tam Bảo cũ Chùa Hưng Sơn

Niên đại được ghi ở câu đầu gian giữa. Cách ghi này khó hiểu, nhiều người thường hiểu rằng năm Canh Dần này nhuận tháng 02. Nếu năm Canh Dần này (1710) nhuận tháng 02 thì sai quy tắc toán học, tìm tháng nhuận. Dùng toán học để tìm năm nhuận, tháng nhuận.Toán học chỉ rõ năm 1710 có số dư bằng 0, đó là năm ứng với năm Canh Dần nhuận, đồng thời số dư bằng 0 cũng ứng với tháng 08 nhuận, Dựa vào máy vi tính, cách tìm khoa học hiện đại để tìm năm nhuận, máy cũng chỉ rõ năm 1710 có số dư bằng 0 là năm nhuận, năm Canh Dần là năm nhuận. Tìm tháng nhuận máy cũng cho biết: trong năm nhuận tháng nào không có tiết trung khí là tháng nhuận.

(Bài viết photo gốc của ông Chuộng trang 1)

Dựa vào máy vi tính và toán học kết quả là: Tam bảo cũ Chùa Hưng Sơn dựng ngày mồng 01 tháng 02 năm Canh Dần nhuận tháng 08 (1710).

  1. Sửa chữa lần thứ nhất, cách năm làm là 89 năm.
  • Niên đại ghi ở bia đá năm Kỷ Mùi (1799)
  1. Sửa chữa lần thứ hai, cách lần trước 50 năm.
  • Niên đại ghi ở bia đá năm Kỷ Dậu (1849).
  1. Sửa chữa lần thứ ba, cách lần sửa chữa trước là 48 năm.
  • Niên đại ghi ở bia đá năm Đinh Dậu (1897).
  1. Sửa chữa lần thứ tư, cách chữa lần trước 55 năm.
  • Niên đại ghi ở câu đầu, năm Nhân Thìn (1952).
  • Nay đề nghị các ông phụ trách công tác Đảng, chính quyền thôn Viêm Xá ghi chép số liệu đã cung cấp niên đại cụm di tích vào sổ sách mang theo tính chất lưu truyền cho các thế hệ sau. Nếu có điều kiện thì ghi vào bia đá.

Tôi cũng đề nghị các ông bà có trình độ khảo cổ có địa vị, có khả năng tổ chức hội thảo để chứng minh được rõ ràng tốt đẹp hơn.

Tôi cũng mong các ông có trình độ nghiên cứu tham gia, bổ xung phân tích vào bản tư liệu này để được hoàn chỉnh hơn./.

(Bài viết photo gốc của ông Chuộng trang 2)

(Bài viết trên là của ông Chuộng tặng ông Ngô Văn Mùi đưa tôi xem xét biên tập để góp phần vào tư liệu cuốn sách chùa Hưng Sơn)

 

  • PGS.TS. Hoàng Thị Thơ, Viện Nghiên cứu tôn giáo, Viện HLKHXH VN

[1] Kinh Bắc là vùng đất có lịch sử từ thời Hùng Vương, với tích Thánh Gióng đánh thắng giặc Ân rồi bay về trời ở núi Vệ Linh. Thời An Dương Vương, Kinh Bắc đã có thành Cổ Loa. Muộn hơn, suốt thời Triệu, Kinh Bắc vẫn là trung tâm của Giao Chỉ – một trung tâm Phật giáo sớm hơn Bành Thành Lạc Dương của Trung Hoa cổ. Kinh Bắc nay chỉ là tên gọi hành chính một phường ở TP. Bắc Ninh, nhưng về văn hóa, Kinh Bắc cũng đồng thời được hiểu là gồm cả hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.

 

 

[2] Theo báo Bắc Ninh, bài: Độc đáo chốn tổ Bảo Quang Tự đăng ngày 26/11/2021 của Nguyễn Văn An cho biết: Chùa còn có tên là Chùa Bụt Mọc, Chùa Bách Tháp, nay thuộc phường Nam Sơn TP BN

[3] Nay chuông không còn, nhưng bản dịch minh văn trên quả chuông cổ (có từ năm 1649) hiện được lưu giữ và có bản dịch ở Viện Hán Nôm, Viện HLKHXH VN.

[4] Xin xem Phụ Lục: Thích Quảng Hợp (2023) Vài nét lược Sử Chùa Hưng Sơn, khảo cứu câu đối, hoành phi với văn học Phật giáo

 

[5]Chú thích của ĐĐ.TS Thích Quảng Hợp: “Qua đó ta thấy năm Kỷ Sửu = 1649 (năm, điểm xuất phát).Theo lịch thì cứ tiến lên hoặc lùi lại 60 năm thì năm Kỷ Sửu lại lặp lại 1 lần. Mặt khác, theo tài liệu bản rập dịch quả Chuông của Chùa Hưng Sơn được đúc năm 1649 đời Vua Lê Chân Tông do Học Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện trước năm 1945. Căn cứ vào chữ trên cột gỗ cũ Chùa Hưng Sơn và căn cứ vào bản dịch Chuông cổ Chùa Hưng Sơn thì ta có thể kết luận là: Chùa Hưng Sơn làng Diềm chí ít cũng phải xây vào năm 1649 (Kỷ Sửu) cách đây 374 năm hoặc có thể lâu hơn nữa”.

[6] Xin tham khảo Phụ Lục: Khoa Cúng Tổ Chùa Viêm Xá

[7] Xin xem Phụ lục: Thích Quảng Hợp (2023) Khoa Cúng Tổ Chùa Viêm Xá (Phiên âm bản gốc chữ Nho hiện ở Chùa Hưng Sơn)

 

[8] Nguyên Cán bộ Ban quản lý di tích  – Sở văn hóa tỉnh Bắc Ninh; ĐT: 0985.224.097

[9] Nguyên Phó Giám đốc sở Nội Vụ tỉnh Bắc Ninh; ĐT: 0359.056.155

[10] Chỉ ông Nguyễn Tiến Vượng ở phố Bà Triệu, TP Hà Nội

[11] Sách Các triều đại Việt Nam, tr 232 – 233.

[12] 86 tuổi, Làng Diềm, Viêm Xá

(Còn nữa)

Ban biên tập pháp học. com

Bài viết khác