Làng Diềm, Lần Theo Câu Hát
Nhà báo Bùi Đăng Bằng[1]
Trong cuộc đời làm báo, có lẽ ấn tượng nhất với tôi là Làng Diềm. Suốt hàng chục năm sau chiến tranh, Tết nào cũng vậy, chẳng hẹn mà gặp, tờ báo nào cũng có bài viết về Dân ca Quan họ, nghệ nhân quan họ, bảo tồn di sản quan họ… mà ấn tượng nhất là Quan họ Làng Diềm và Đức Vua Bà – Thủy tổ Quan họ. Bài viết không trang nhất cũng đăng trang giữa để in màu cho rực rỡ sắc Xuân, gây ấn tượng mạnh cả về nội dung và hình thức.
Hội báo Xuân toàn quốc hằng năm tràn ngập ảnh liền chị nón thúng quai thao, yếm điều, áo tứ thân, khăn mỏ quạ,… tôn lên vẻ đẹp phúc hậu, đằm thắm của phụ nữ Kinh Bắc, sánh cùng liền anh áo the, khăn xếp, ô lục soạn lịch lãm, tài hoa. Chương trình văn nghệ khai hội cũng mở ra từ liền chị, liền anh biểu diễn chào mừng, với trầu têm cánh phượng và làn điệu thiết tha, bay bổng: “Khách đến chơi nhà, là mấy khi khách đến chơi nhà, đốt than tình mà quạt nước, pha trà là người í ơi…!”. Từng chữ, từng lời long lanh, đậm đà da diết nghĩa tình, có trước có sau, lớp lang chặt chẽ, khi khoan khi nhặt như rót mật vào lòng. Phải yêu nghệ thuật lắm, được đào tạo kỹ càng và hiếu khách lắm mới hát và ứng xử được như vậy.
Đến Hội Lim, tìm “Quan họ gốc”:
Còn nhớ, cách đây khoảng 30 năm, sau khi tôn tạo, khôi phục lại được ngôi đình, đào hồ và mở lại lễ hội truyền thống của làng sau bao năm chiến tranh giặc giã, có mấy cụ già làng Lim đạp xe đến Tòa soạn Báo Phụ nữ Thủ đô mời đến chung vui. Vốn mê Quan họ, lại cảm động trước tấm lòng hiếu khách của các cụ và dân làng, gần chục cán bộ, phóng viên hoan hỉ nhận lời.
Hội Lim mở ngay đầu Xuân, vào ngày 13 tháng Giêng. Dưới bầu trời lành lạnh, lất phất mưa, du khách khắp nơi đổ về; con đường Quốc lộ 1A càng gần đến nơi, càng tắc. Dân các làng thuộc tổng Nội Duệ (cũ) từ các ngả trang phục lễ hội cổ xưa mang cờ, tán, lọng, bát bửu rước kiệu Thánh nô nức kéo đến tham gia. Không gian rực rỡ sắc màu, âm vang tiếng hát giao duyên vẫy gọi. Trên đồi Lim, có đoàn hát trên khán đài, có đoàn dựng trại hát giao lưu ven sườn đồi, trên những chiếc thuyền bồng bềnh giữa hồ nước trong xanh. Bao làn điệu quan họ, với đủ sắc thái, cung bậc tình cảm: yêu thương, nhung nhớ, khắc khoải chờ mong, dùng dằng nhắn nhủ… được các liền anh, liền chị đua sức thi tài.
Ông Bùi Đăng Bằng, Giáo sư TS Nguyễn Tá Nhí, Thầy Hợp, Giáo sư TS Tô Duy Hợp, PGS TS Hoàng Thị Thơ, Ni sư Thích Đàm Định hội ý về trao đổi tư liệu về lịch sử Chùa Hưng Sơn tại nhà Tổ, 2022. Ảnh: Văn Thành
Sau khi nghe hát cửa đình, đêm ấy các cụ còn bố trí canh hát trong gia đình một nghệ nhân nổi tiếng. Sáng hôm sau, cả đoàn tạm biệt Làng Lim, ai có việc gấp mới về Tòa soạn, còn lại tìm đến Làng Diềm[2], “cái nôi quan họ” nức tiếng xưa nay.
Sau này, nhờ có nhân duyên với Thầy trụ trì Chùa Diềm, tôi còn nhiều dịp được đến với Làng Diềm. Mỗi lần qua, lại có thêm nhiều điều bổ ích.
Ở làng “Vãng du hữu lợi”:
Đã hàng chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in ấn tượng lần đầu tiên được tới Làng Diềm. Giữa vùng đồng bằng trù phú thênh thang, bỗng bật lên một quả núi tròn như mâm xôi, cây cổ thụ xanh tốt như bức bình phong che chắn phía Tây làng, được gọi nôm na là “Núi Sót”, tên chữ là Kim Sơn. Con Sông Cầu[3] trước khi gặp núi Kim Sơn còn uốn lượn, “đi” xuống rồi lại “đi” lên, tạo cho bờ Bắc bán đảo Vân Hà (huyện Việt Yên, Bắc Giang), bờ Nam là bán đảo Hòa Long, thuộc xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Không chỉ có thế đất đẹp về phong thủy, Diềm lại nằm ở vùng giáp ranh giữa đồng bằng châu thổ Sông Hồng và vùng Trung du miền núi. Ở vị trí “nhất cận thị, nhị cận giang”, Diềm vừa gần trục đường bộ Thiên lý ngược Bắc xuôi Nam dễ dàng, vừa có thể theo Sông Cầu lên các tỉnh phía Bắc, Tây Bắc giàu lâm thổ sản; xuôi Lục Đầu Giang[4], ra vùng Đông Bắc, Đông Nam trù phú, giàu khoáng sản và thủy, hải sản. Từ đây về Hà Nội cũng chỉ hơn 20 cây số đường chim bay. Giao thông không chỉ tạo điều kiện thuận tiện cho dân làng Diềm làm ăn, buôn bán mà còn học hỏi, giao lưu. Tuy vậy, ba bề tiếp giáp sông nước cũng tạo cho Hòa Long nói chung, Làng Diềm nói riêng như một ốc đảo kín đáo, thanh bình, có bản sắc riêng.
Ngay từ đầu làng, các già làng đã tạo ấn tượng bởi cái cổng có bốn chữ Nho “Vãng du hữu lợi” – đi qua là có lợi; vừa tự hào, vừa hiếu khách. Tiếp đến là ngôi Đình Diềm và Đền Vua Bà soi bóng mặt hồ, đón những ngọn gió nam mát lành từ cánh đồng Mặt Gương sáng láng. Chùa Diềm (Hưng Sơn Tự) và Đền Cùng – Giếng Ngọc nằm ngay chân núi, thấp thoáng dưới bóng cây cổ thụ. Buổi sáng, khi mặt trời lên thì cây cối tươi tốt, tràn đầy sinh lực; lại thâm nghiêm, man mác lúc chiều tà và huyền diệu khi trăng gác đầu non,… Công trình nào cũng có nét độc đáo, sức sống riêng, lại gắn bó, bổ sung hỗ trợ cho nhau thật hài hòa, trong không gian xanh mát, góp phần làm nên một danh hương đặc sắc về mỹ tục, thuần phong.
Đình Diềm là một trong ba ngôi đình nổi tiếng, niềm tự hào của vùng Kinh Bắc: “Thứ nhất là đình Đông Khang/ Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang Đình Diềm”. Trước đình làng, sau nghi môn bề thế là cây hương đá cổ kính, phong sương. Dù chỉ còn 5 gian, vì hai dĩ và sàn gỗ của đình đã bị phá trong kháng chiến chống Pháp nhưng vẫn còn nhiều hiện vật quý, đặc biệt là đôi phỗng Chăm và bức cửa võng liền khám thờ có một không hai: cao tới bảy mét, từ thượng lương “buông” xuống, chạm khắc tinh xảo. Cảnh Tiên Phật cùng cuộc sống thanh bình chốn trần gian đều hân hoan đồng hiện: có rồng chầu mặt trời, cô tiên cưỡi Rồng, chim Phượng ngậm đèn lồng cho tiên ông đánh cờ, cô gái làm duyên,… Tất cả đều được tạo tác sinh động, xoắn xuýt, tầng tầng lớp lớp. Không chỉ ngôi đình được xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1964[5], mà bức cửa võng cũng được Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2020. Đình thờ ngũ vị Thành hoàng là Đức thánh Tam Giang[6] cùng các vị Đô Thống, Giáp Ngọ và Nam Hải Đại Vương.
Đền thờ Đức Vua Bà, tương truyền được khởi dựng từ thời Lê, đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, gần nhất là năm 2018. Đền có kết cấu bằng gỗ, trau chuốt, hài hòa, đậm nét truyền thống, gồm hai tòa đại bái và hậu cung, còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý như ngai thờ, bài vị, tượng thờ, sắc phong… Công đức của Vua Bà nổi bật trên bức hoành phi mang bốn chữ Hán là “Vương mẫu giới phúc” và đôi câu đối:
Trung liệt hiển hồi hương, vạn cổ cương thường hoành vũ trụ
Thần linh hưng Viêm ấp, lũy triều phong tặng đối càn khôn.[7]
Theo truyền thuyết, Bà là công chúa, con gái Vua Hùng. Đến tuổi cập kê, nhà Vua cho tổ chức hội cướp cầu kén chọn phò mã. Không chấp nhận kết duyên với người thắng cuộc, Bà xin cha cho được chu du sơn thủy. Vừa ra khỏi kinh thành thì giông gió nổi lên, cuốn cả đoàn người lên trời rồi giáng xuống ấp Viêm Trang. Bà cho khai phá đất hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa,… Ca dao xưa từng có câu: “Hỡi cô thắt lưng bao xanh / Có về Viêm Xá với anh thì về/ Viêm Xá có lịch có lề/ Có nghề trồng mía, có nghề cửi canh”…
Bà còn sáng tác nhiều làn điệu Quan họ, dạy dân làng ca hát, đặt ra nhiều mỹ tục, thuần phong. Người làng Diềm tự hào lưu truyền câu ca: “Thủy tổ Quan họ làng ta/ Những lời ca xướng Vua Bà sinh ra/ Xưa nay nam nữ trẻ già/ Ai mà ca được ắt là hiển vinh”. Đặc biệt, tục kết chạ do Bà đặt ra, quy định liền anh, liền chị các làng kết chạ không được lấy nhau suốt bao đời nay được con cháu giữ gìn. Phải chăng đây là cách để lề lối, câu hát, văn hóa quan họ mãi mãi bay cao, lan xa, lay động lòng người, tôn vinh nghệ thuật vì cộng đồng chứ không phải vì tình yêu đôi lứa. Cũng chính vì thế mà giai điệu, lời ca không bao giờ buồn thảm, bi lụy, mà luôn được trau chuốt, nâng cao từ đời này sang đời khác, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại[8]. Diềm là làng duy nhất trong 49 làng Quan họ của tỉnh Bắc Ninh có đền thờ đức Vua Bà. Ngoài ra, Vua Bà còn được thờ ở đình làng.
Theo thông lệ, Hội làng Diềm diễn ra từ sáng mồng Sáu đến mồng Bảy tháng Hai âm lịch, nhưng ngay từ chiều mồng Năm, các cụ đã làm Lễ dâng hương cầu mưa rửa đền. Quả là đặc sắc, vậy là chính Trời Đất cũng tham gia Lễ hội làng Diềm hay lễ hội làng Diềm là lễ hội cầu mưa mùa Xuân cho Trời Đất gặp nhau, vạn tượng sinh sôi, mưa thuận gió hòa và hát Quan họ chính là tụng ca tôn vinh Trời Đất, Phật Thánh đã ban cho dân làng được hạnh phúc, ấm no?[9] Các cụ đã nghiệm thấy rằng, năm nào lễ cầu ứng thuận là năm ấy nhân khang vật thịnh. Trước đây, mỗi khi hạn hán, Làng còn tổ chức hát quan họ cầu mưa, và chỉ ca theo lề lối cổ.
Đền Cùng (Đền Giếng) là quần thể kiến trúc hài hòa, cổ kính, có nhiều cây cổ thụ xanh tốt như rừng, nổi tiếng linh thiêng, thờ hai công chúa nhà Lý là Ngọc Dung và Thủy Tiên. Trong đền có bức đại tự “Ngân sơn thủ khố”. Nhân dân thường có câu: “Dù ai đi lễ chín phương/ Không bằng linh hiển thắp hương Đền Cùng”.
Tương truyền, ngay dưới chân núi Kim Sơn từng có một kho quân lương của triều đình. Thời Lý, vùng này còn rất hoang vu, đêm đêm thú dữ thường về phá kho, khuấy động cuộc sống yên bình của nhân dân. Hai nàng bèn xin cha cho về Diềm góp phần bảo vệ kho tàng, giữ gìn cuộc sống bình yên cho dân.
Vì yêu quý Làng Diềm, nhân tiết Thanh minh, hai nàng hướng về Kinh thành quỳ lạy vua cha, xin được ở lại hương thôn này để giúp dân làng. Nói xong, hai nàng hóa thành đôi cá chép vàng. Ghi nhớ công ơn, dân làng lập đền thờ, gọi là Đền Cùng, lại đào Giếng Ngọc, khơi nguồn nước trong lành cho “cá thần” trú ngụ. Các cụ cho rằng, nhờ nước Giếng Ngọc mà người làng Diềm vừa đẹp, vừa hát hay, tính cách ôn hòa, nhã nhặn.
Cạnh Đền Cùng, Giếng Ngọc còn có động Sơn Trang thờ Mẫu Thượng ngàn khiến cảnh quan càng thêm linh thiêng, huyền ảo. Ngoài ra, trong khuôn viên còn có một cái quán, các cột đều bằng đá chế tác đơn sơ, cổ kính. Các cụ cho biết, quán này xưa để quan tài người chết đường, chết chợ hay khi đưa tang, tạm nghỉ ở đây.
Chùa Diềm, còn gọi là chùa Viêm Xá hay Hưng Sơn Tự, chưa rõ được xây dựng từ bao giờ. Nhưng theo bản dập bài minh về việc đúc mới chuông chùa Hưng Sơn năm Phúc Thái thứ 7 (1649), đời vua Lê Chân Tông[10], thì “chùa đã có từ nhiều đời trước”. Chùa nổi tiếng đến mức, chính cung tần Lê Thị Ngọc Liêm, hiệu Diệu Thái, người xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam nước Đại Việt, sống ở Trung Đô Vương cũng “trước khuyến vương công, sau bố thí vật liệu” cùng bản tự và dân làng chung đúc lên quả chuông quý này. Các cụ cho biết, chính dân làng Diềm đã tháo cả bốn quả chuông của đình, đền và chùa làng, kể cả quả chuông chùa nặng ngàn cân đúc năm 1649, cho lên mảng, theo con Sông Cầu mang lên chiến khu đúc súng đạn để hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Tương truyền, trước kia chùa ở khu Mả Bến, sau mới dời đến địa điểm hiện nay, nằm đối diện với đền thờ Vua Bà qua trục đường chính giữa làng. Đây là địa thế đẹp nhất làng, có khuôn viên rộng rãi, cảnh quan sáng láng, cây cối tốt tươi. Ngoài cổng chính hướng Nam, mang tên Hưng Sơn Tự, chùa còn có cổng phụ hướng Đông, mở ra đường cái quan, viết bằng cả chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Chữ Nôm phía ngoài là “Không môn Hưng Sơn tự” (Cửa Không chùa Hưng Sơn), còn phía trong là “Cửa Không tối quảng” (tức Cửa Không rất rộng)…
Theo chúng tôi, ít nhất Chùa Diềm có từ thời Lý, dựa trên một số căn cứ: Diềm là một làng cổ, nằm ở tỉnh Bắc Ninh – “cái nôi” của Phật giáo Việt Nam, xung quanh có nhiều ngôi cổ tự hàng nghìn năm tuổi; ngay sát châu Cổ Pháp, quê hương của vương Triều Lý, có nhiều vị vua anh minh, nhân ái, kính Phật trọng Tăng. Điển hình là Thái Tổ Lý Công Uẩn, người định đô Thăng Long, sáng lập Vương triều Lý, luôn quan tâm xây dựng, sửa chữa chùa chiền[11], từng cho người sang Tống thỉnh kinh Tam Tạng, làm lầu bát giác chứa kinh, bổ nhiệm Thiếu sư, một trong ba chức quan cao nhất trong triều… Nhà Sử học Lê Văn Hưu từng viết: “Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, Tôn Miếu chưa dựng, đền Xã Tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức[12], lại sửa chữa chùa quán ở các lộ, và cấp độ điệp cho hơn nghìn người ở Kinh sư làm tăng,… Cho nên đời sau mới xây tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cung điện của vua. Rồi người dưới bắt chước… trong nước chỗ nào cũng có chùa…”[13].
Cũng nhờ các vua Lý tích cực đưa đạo Phật thành Quốc đạo mà cả vùng Kinh Bắc trù phú sớm được hương Thiền phủ khắp, khiến cho tình yêu thương, đùm bọc cộng đồng càng thêm sâu đậm, tạo thành những giá trị phổ quát, cốt lõi của văn hóa Kinh Bắc. Cũng nhờ đạo Phật sớm phát triển mạnh mẽ mà Bắc Ninh dù là đất khoa bảng, nhưng vẫn đậm chất nhân văn. Từ xa xưa, Quan họ Làng Diềm đã kết chạ với Quan họ làng Hoài Thị[14], một làng khoa bảng nổi tiếng vùng Kinh Bắc, có nhiều người đỗ đạt cao cũng góp phần quan trọng để câu hát quan họ thêm uyên bác, say đắm lòng người. Là làng quan họ gốc, trong môi trường như vậy, không thể nói Diềm lại chậm tiếp thu đạo Phật, chậm xây chùa. Chỉ tiếc là, do vùng này bị ảnh hưởng nhiều của chiến tranh giặc giã, nhất là giặc Minh tàn ác mà tư liệu xa xưa của ngôi chùa bị tiêu hủy, thất tán hiện chưa tìm lại được.
Càng đi sâu nghiên cứu văn hóa quan họ và Dân ca Quan họ, ta càng thấy ảnh hưởng, sự tiếp thu nhuần nhuyễn những giá trị cơ bản, đặc sắc của đạo Phật, như Tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả), vô ngã vị tha,… Mái chùa không còn xa xôi bí hiểm, mà gần gũi, thân thương như câu quan họ hóm hỉnh này: “Vào chùa (chùa) mượn chiếu (í ơ chiếu) chùa ra (á ra)/ (Ra ngồi) đôi người đàn, đôi em lý (lý em hát, bớ sang tính bớ lý tình tang, tính á tang tình, tình tình hỡi tính tính ơi ơ) chùa là em đi vào chùa”…
Làng Diềm, nơi “Rồng tụ hội”:
Không thể kể hết những công trình thiêng liêng và cảnh quan đặc sắc của Diềm, như: dấu tích thành Long Biên, khu Mả Bến, nghè quan Đô Thống, ông Giáp Ngọ,… Nhưng hầu hết các vị thần thánh được thờ ở đây đều xuất hiện rất sớm, từ nơi khác đến, yêu thương gắn bó chặt chẽ với dân làng, có công khai hoang lập ấp, chống giặc ngoại xâm. Dấu tích thờ đá cùng các công trình thờ Mẫu và các vị thần có công đánh giặc giữ nước còn hiển hiện đậm nét, chứng tỏ Diềm là một vùng đất cổ, sớm giàu, biết “chiêu hiền đãi sỹ”. Phụ nữ ở đây rất đảm đang, tháo vát, có năng khiếu thơ ca và hiếu khách, thích giao lưu học hỏi…
Công trình mới nhất là Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh, như cánh diều lộng gió vút lên ngay ở đầu làng, hướng về tứ phương, có trang thiết bị hiện đại, mới khánh thành tháng 5/2019. Từ đình làng và đền Vua Bà nhìn ra, núi Kim Sơn và Nhà hát đăng đối nhau qua hồ công viên và Quảng trường rộng lớn vừa quy hoạch tôn tạo sau khi xã Hòa Long được chuyển từ huyện Yên Phong về thị xã Bắc Ninh và nâng cấp thành phường[15]. Từ đó, đường làng đã thành đường phố, nhiều năm hội làng tiến hành đồng thời với Hội thi hát Dân ca Quan họ của tỉnh Bắc Ninh.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ có Làng Diềm còn bảo lưu được những tập tục sinh hoạt quan họ cổ xưa nhất, như: “hát” quan họ trùm đầu, tục nhà chứa, ngủ bọn, kết chạ… Đây cũng là làng có nhiều thế hệ nghệ nhân nổi tiếng am hiểu về lề lối quan họ và ca được nhiều giọng lề lối nhất vùng. Tất cả lễ hội đền, đình, chùa của làng đều nổi trội, thu hút được nhiều liền anh, liền chị các làng trong vùng đến trảy hội[16].
Nghệ nhân Nguyễn Thị Khen cho biết: “Cả làng Diềm, ai cũng biết hát Quan họ. Riêng quan họ cổ, trước có hơn 300 bài, nay còn hơn 200 bài, hát theo kiểu đối đáp. Các bài không có bản nhạc mà nằm sẵn trong lòng. Ban ngày đi làm, tối về mẹ con, bà cháu, thầy trò truyền dạy cho nhau. Trước đây, làng có 18 nghệ nhân, nay các cụ đã ra đi 7, còn 11 cụ. Công việc đào tạo liên tục được tiến hành, từ đời này qua đời khác, nhiều nghệ nhân ở các làng khác cũng tìm đến đây học hỏi, giao lưu. Quan họ biểu diễn chủ yếu vào dịp hội làng, đình đám, các sự kiện lớn hoặc có nơi mời. Trước khi biểu diễn đều có cơi trầu cánh phượng, vừa để dâng Mẫu, vừa mời khách”. Ngoài nghệ thuật trình diễn vang rền nền nảy, kéo hạt nhả tơ, các nghệ nhân làng Diềm còn có chất giọng mượt mà, đằm thắm, có bản sắc riêng.
Hôm nhà chùa tổ chức hội thảo làm sách, buổi trưa tôi một mình đội mưa tìm ra Bến đá Sông Cầu. Dọc đường làng, khói hương phảng phất từ đình, chùa, đền và cả cái am nhỏ, con sấu đá bên đường. Cánh đồng chìm trong mưa phùn gió Bắc không một bóng người, tạo cảm giác linh thiêng, huyền bí. Vượt qua con đê sừng sững, có cây đa và cái điếm chơ vơ, lại phải đi xuống, qua triền đê và bãi sông rộng, cây lưu niên xanh tốt, có cả những bụi tre hóa ken dày đặc. Sát mép nước đậm sắc phù sa là chiếc cột bê tông có ghi hồng danh Đức Phật A DI ĐÀ như một chiếc thẻ bài dựng lên nhắc nhở. Chắc đây không phải là bến nước gieo duyên, mà là Bến gỗ của Làng Diềm, nơi tạo nguồn nguyên liệu cho một nghề phụ từng nổi tiếng của làng: nghề mộc.
Nhìn địa thế này mới hiểu, đê làng Diềm không chỉ để chống lại thiên tai, mà còn nằm trong đoạn trọng yếu nhất, dài khoảng 30 cây số của Phòng tuyến sông Như Nguyệt, từ Ngã ba sông Cà Lồ đến Thị Cầu, nơi Thái úy Lý Thường Kiệt từng chỉ huy đánh tan 30 vạn quân Tống xâm lược năm 1077. Trong đó, làng Diềm nằm ở phần nhô lên cao nhất, giữa hai cánh quân của giặc, do chủ tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết chỉ huy, đóng ở phía Bắc Sông Cầu, nằm bên hai bến đò lớn, trên hai tuyến đường chính về Thăng Long là đường Thiên lý qua Thị Cầu và con đường qua bến đò Như Nguyệt?[17]. Tôi chợt nghĩ, chỗ nào nơi đoạn sông này hai Hoàng tử Hoàng Chân và Chiêu Văn đã anh dũng hy sinh khi chỉ huy lực lượng thủy binh chống giặc[18]?
Từ khi nhận lời tham dự hội thảo, trong tôi luôn băn khoăn bao câu hỏi: vì sao nơi đây lại có “Giếng Chăm”[19], “Phỗng Chăm”, “Đền Cùng”; sao Đình Diềm lại “vẻ vang”, Rồng trong văn hóa phương Đông tượng trưng cho vua chúa, thế mà vì sao bức cửa võng của ngôi đình Diềm lại có tới 99 Ông Rồng, có Ông lại chịu uốn mình cho thiếu nữ cưỡi? Phải chăng đây là nơi quần tụ của “Họ nhà Rồng” (Hòa Long)? Đâu phải chỉ đến đời Lý, vua quan, quân dân cả nước mới về đây dựng phòng tuyến Sông Cầu, cố kết đồng lòng cùng nhau đánh giặc giữ nước rồi “đất lành chim đậu”, “đất lạ hóa quê hương”, mà việc này đã diễn ra từ thời Lý Nam Đế đánh giặc Lương[20], Ngô Quyền đánh quân Nam Hán,… Ngay cả nhà Trần ba lần chống quân Nguyên Mông, nhà Lê chống quân Minh, Nguyễn Huệ chống quân Thanh, có lần nào mà núi sông nơi này không in hằn tội ác, dấu chân quân xâm lược. Phải chăng đình Diềm là nơi dựng lên để thờ những người con trung hiếu đã bao đời nối nhau anh dũng hy sinh trên phòng tuyến Sông Cầu, trên dòng sông Như Nguyệt để bảo vệ quê hương đất nước?.
Từ Bến Đá, chúng tôi đã tìm lên núi Kim Sơn, qua ngôi chùa Kim Sơn của Khu Linh Cảm, được Thầy Thích Giác Tiến thương mở cửa sau chùa, dẫn lên tới tận đỉnh núi.
Nhân dịp Đại lễ Phật đản, ngày mồng Mười tháng Tư năm Quý Mão (2023), chúng tôi ngược Sông Cầu tìm tới Ngã ba sông Cà Lồ, tới ngôi Đền Xà nổi tiếng[21], từng phát tích bài “thơ thần” Nam quốc sơn hà, được coi như bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước ta. Tình cờ thế nào, hôm ấy lại đúng là ngày chính kỵ của Đức Thánh Tam Giang. Vào dịp này, cả 372 làng dọc Sông Cầu đều long trọng tổ chức giỗ các Ngài, chư Tăng trụ trì chùa các làng này cũng ra đình giúp làng hầu Thánh.
Ngôi đình Diềm, đang trùng tu, ở Đền Cùng khói hương nghi ngút, các loại bánh truyền thống bầy ra cả trước Đền. Tại Đền Xà vừa tôn tạo năm 2020, cụ Trưởng ban Quản lý Di tích vừa tiếp chúng tôi, vừa sụt sùi ôn lại chiến thắng Như Nguyệt. Trưa ấy, Đoàn chúng tôi còn đến dâng hương tại Đền Thái úy Lý Thường Kiệt linh thiêng, bề thế ở xã Tam Giang, cũng vừa khánh thành, ngay cạnh Bến đò Như Nguyệt. Phía bên kia sông là “cánh đồng Bãi Xác”, còn bên này là các “gò xác”, “đống xác”.
Chưa có dịp ngược lên đến huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), nhưng chúng tôi cũng đã có duyên xuôi về Lục Đầu Giang, tới Sông Thương trong xanh hiền hòa, có Đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Cha Trần Hưng Đạo, quanh năm nhân dân cả nước nối nhau hương khói phụng thờ,…
Phải chăng bán đảo Hòa Long, mà trung tâm là Làng Diềm, từ xa xưa đã từng là một trong những đại bản doanh của phòng tuyến Sông Cầu, nơi hội tụ của “nhà Rồng”, âm dương bao đời kiên cường chống giặc. Bao nhân tài vật lực, lương thảo của cả nước dồn về đây để dốc sức bảo vệ Kinh đô, bảo vệ quê hương. Vì thế mà từ xa xưa, bán đảo đã có tên Hòa Long, phường (xã) đều mang tên xã Hòa Long, Đình Diềm mới được “vẻ vang”, có bức cửa võng có một không hai ở nước ta. Giếng Chăm, Phỗng Chăm, Đền Cùng… cũng ra đời từ đấy. Núi Kim Sơn khác nào đài chỉ huy hay vọng gác tiền tiêu?
Nằm sát Diềm là Khu Quả Cảm, quê hương của bà Chúa kho. Lăng mộ của Bà nằm ngay sau Đền, cách Đền Cùng – Giếng Ngọc chỉ chừng non cây số. Cách chừng vài ba cây số là Đền Bà chúa Kho ở phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, nơi Bà làm việc…
Trải qua hàng ngàn năm cần cù lao động sáng tạo, đoàn kết, anh dũng chiến đấu để xây dựng và bảo vệ quê hương, các thế hệ cư dân Làng Diềm cùng cả nước đã tạo dựng, gìn giữ được hàng loạt di sản văn hóa đặc sắc cả về vật thể và phi vật thể, có sức lay động mạnh mẽ, tạo nên nét đẹp truyền thống, tiêu biểu cho đời sống văn hóa cộng đồng của làng quê văn hiến Việt Nam.
Cảm ơn Làng Diềm đã hằng nghìn năm qua nối đời hương lửa nơi trung tâm chiến tuyến Sông Cầu để hôm nay du khách muôn phương có dịp tìm về thắp nén tâm hương, lắng nghe câu Quan họ mượt mà giản dị mà sâu đậm nghĩa tình, giữa một vùng danh hương đặc sắc.
Hà Nội – Bắc Ninh năm Quý Mão 2023
Chùa Hưng Sơn làng Diềm
Ngẫu hứng suy luận
Tác giả Nguyễn Văn Thư
Viêm Xá, 19.10.2022
Thủa khai sinh do Nhũ Nương con gái Hùng Vương đời thứ sáu do trời định đã đưa Nhũ Nương và bốn mươi tám người cả nam, nữ và ba quả cầu giáng hạ xuống đây lập nên: Viêm Trang, cho mãi đến Hùng Vương thứ 18. Lúc đó, văn hóa quan họ đã bay cao và vang xa đến tận Kinh Đô, Văn Lang, Nhị vị Công Chúa tên là: Tiên Dung và Ngọc Hoa tài sắc vẹn toàn, cầm kỳ thi họa, muốn nghe một canh quan họ do chính chị mình cùng huyết thống (cách 12 đời) sáng lập. Liền xin Vua cha đi kinh lý đến miền quan họ. Trước tiên là thắp một tuần nhang sau đó là nghe canh quan họ do các anh hai chị hai nơi phát tích ra làn điệu quan họ trình diễn, canh hát được diễn ra nhiều ngày đêm.
Với sự thỉnh cầu làm say đắm nhị vị công chúa ở lại đây hướng dẫn cho nhân dân phát triển kinh tế. Nhị vị Công Chúa thuận lòng ở lại. Tiếp tục hướng dẫn các anh hai, chị hai trồng mía, ép mật. Không những phục cho nhân dân sở tại mà còn giao lưu đi khắp các vùng miền tổ quốc. Vậy mật làng Diềm đã trở thành hàng hóa và có thương hiệu nên có câu “Nhất ngon là mía Lam Điền- dâu ngoan ngồi đó, rể hiền ngồi đâu”. Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa cũng trở thành những sản phẩm hàng hóa đặc biệt mà các liền anh liền chị quan họ lúc đó tạo thành. Vậy nên có câu “Dù đi buôn dâu bán đâu cũng không quên được gốc đâu làng Diềm”. Giai đoạn này kinh tế của công dân no đủ có của ăn, của để. Nhị vị Công Chúa lập kho Ngân Xuyến (nay là Đền Làng) và đổi tên Viêm Trang thành Làng Diềm cho phù hợp với cơ sở kinh tế phát triển cộng đồng không những đủ ăn, đủ mặc mà còn có hàng hóa lưu đi khắp nơi.
Do quá trình phát triển lâu dài của địa phương, lúc đó nảy sinh về nhu cầu sinh hoạt văn hóa “Phú quý sinh lễ nghĩa” với sự đồng thuận và quyết tâm của dân làng là xây dựng ngôi chùa. Vậy Chùa Diềm được xây dựng từ đời nhà Lý, tọa lạc nơi đất đầu làng (nay là trạm xá) có diện tích khoảng 6 sào (2 nghìn mét vuông). Nơi ấy là một vùng đất thấp nên thường bị ngập úng, quá trình lâu dài bị hỏng. Cho đến năm 1683 nhân dân Làng Diềm chuyển chùa về tọa lạc nơi đất cao dưới chân núi Kim Sơn.
Lúc này đổi tên Chùa Diềm thành Chùa Hưng Sơn (Chùa Hưng Sơn – Phổ Chiếu). Đó là ước nguyện của dân làng cầu mong cho dân làng luôn hưng thịnh và nay đã thành hiện thực. Phổ Chiếu đó chính là ánh hào quang tỏa chiếu đi muôn nơi.
Các Phật tử làng Diềm Quy Y Tam Bảo tại Chùa Hưng Sơn, 2022. Ảnh: Phật tử
Chùa Hưng Sơn có quy mô lớn cả về diện tích, mặt bằng và khuôn viên. Khoảng gần 5000m vuông và chia thành 3 khu: Khu trung tâm gồm có: Nhà Tam Bảo, Nhà Tổ, Nhà Mẫu – là nơi thờ tự, hai bên là hai dãy hành lang.
Trước Tam Bảo là sân chùa đến cổng Tam Quan (có gác chuông). Khu ẩm thực gồm có nhà bếp, nhà ăn, khu bể nước và nơi chuẩn bị cho đồ nấu ăn hằng ngày và khi có việc lớn. Khu chăn nuôi có khu nuôi, lợn, gà, trâu, bò, có ao nuôi thả cá và có ruộng cấy lúa.
Chùa Hưng Sơn là một Chùa lớn của xứ Kinh Bắc xưa, tổng thể có gần 100 gian. Là chùa hạ của các tăng, ni, Phật tử. Chùa được khởi công xây dựng vào năm 1683. Ngôi Chùa đã chứng kiến bao biến cố thăng trầm của đất nước, của làng quê. Nắng mưa là của trời, kết hợp với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thực hiện lời… của kháng chiến “Vườn không nhà trống”. Vì thế mà nhân dân đã cào ngói xuống không cho địch trú ngụ… Ngói cào xuống rồi trơ phần gỗ thế là mưa nắng khí hậu đã làm hỏng Chùa. Cho mãi đến những năm 1954 đến 1955 thì nhân dân mới dọn dẹp thành nơi Tam Bảo, nơi Phật ngự. Từ năm 1959 đến 2003 là chùa không có Sư.
Cũng vào năm 2003 nhà danh nghiệp Nguyễn Tiến Vượng ở 118 Bà Triệu, lòng hảo tâm của ông đã xây dựng 07 gian nhà thờ Mẫu thờ Tổ hiện nay có đầy đủ tiện nghi nhân dân được hưởng. Ngày 25/08/2003 nhân dân xin thỉnh Thầy Thích Diệu Thủy là đệ tử của Ni sư Thích Đàm Đức ở Chùa Chân Tiên về trụ trì (theo văn bản trao chùa dân mà Thầy Diệu Thủy cung cấp). Năm 2006 với sự đồng thuận của dân làng xây dựng ngôi Tam Bảo như hiện nay. Kinh phí của tập thể và sự công đức của nhân dần trong làng và thập phương.
Kế tiếp là Sư Thầy Thích Quảng Hợp được nhân dân và chính quyền thỉnh mời về trụ trì chùa Hưng Sơn từ năm 2014 tới nay đã có công cùng nhân dân, thập phương tôn tạo, xây dựng lớn chùa ngày càng tố linh, tố hảo, cải tạo nhà Tam Bảo cũ thanh nhà thờ Tổ (như hiện nay) một công trình hoàn hảo và nhân dân khen ngợi. Thầy Thích Quảng Hợp còn cải tạo khu ao, vườn, Lầu Quan Âm đó là công trình kết hợp thắng cảnh của du khách về chùa và tiếp tục xây dựng mới khu nhà bếp, đó cũng là công trình được tôn kính.
Công đức của Sư Thầy Thích Quảng Hợp đã làm tôn lên vẻ đẹp thuần phong mỹ tục, không những của Chùa mà còn là vẻ đẹp tiềm ẩn của quê hương Làng Diềm.
Về tâm tư tác giả xin có đôi điều: Thứ nhất, đã đi đâu làm gì cũng phải được lòng dân, có dân là được tất cả nên có câu “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân hiểu cũng xong”. Chính dân là người trực tiếp bảo vệ nhà chùa (bằng lời nói gói vàng). Mỗi khi có việc dân nhờ Thầy dù ở xa, bận việc cũng nên thu xếp về giúp dân, đó chính là mối quan hệ qua lại tạo điều kiện để dân thân thiện, gần mũi mình hơn.
Thứ nhì, Chùa đẹp rồi nhưng còn thiếu (Cổng Tam Quan). Thực sự khi Chùa đã bề thế, khuôn viên đẹp nhưng chưa đủ, phải có Cổng Tam Quan để tôn lên vẻ đẹp trang nghiêm của ngôi Chùa, chắc nguyện vọng của cá nhân cũng phù hợp với nguyện vọng của toàn dân Làng Diềm. Thầy đã đi nhiều nơi nên tìm hiểu, tham khảo mô hình nào sao cho phù hợp với khuôn viên Chùa.
Bạch Thầy: Đây là những dòng ngẫu hứng và suy luận bộc bạch còn nhiều khiếm khuyết. Phật Tử sẽ tiếp tục tìm hiểu nữa về Chùa Hưng Sơn. Có điều gì sơ suất mong Thầy lượng thứ, hoan hỷ./.
| Ký Ức Về Làng Diềm Và Chùa Hưng Sơn “Những Dấu Ấn Của Tuổi Thơ Tôi”
Tác giả: Trần Đình Vạn[22]
|
Làng “Diềm” là một làng Việt Cổ nằm bên dòng sông Cầu thơ mộng, mang nặng những nguồn phù xa bồi đắp, nước quanh năm trong mát tưới cho những ruộng dâu tươi tốt chạy dọc suốt triền sông, từ đó người dân quê tôi có nghề trồng dâu nuôi tằm dệt vải và lập lên “Viêm ấp” chính là tên của làng Diềm ngày nay:
“Sông Cầu uốn lượn cong cong
Hai con đê nhỏ chạy vòng bám theo
Con đò níu chặt mái chèo
Đi ngang dòng nước chia đê đôi bờ”.
Theo những sổ sách còn ghi Làng Diềm do Công Chúa con gái Hùng Vương đời thứ 6 tạo dựng lên cách đây hơn 2000 năm, trước khi vào làng phải đi qua một chiếc cổng làng, trên cổng đời xưa có gắn bốn chữ “ Vãng du hữu lợi” tức là khách vào làng thăm đều được đón tiếp niềm nở chu đáo, bởi vậy Vua Tự Đức đã phong tặng cho làng Diềm 4 chữ “Mĩ Tục Khả Phong” có lẽ là một làng đã đạt đến danh hiệu làng văn hóa cấp quốc gia nên nhà Vua phong tặng, đến ngày nay làng Diềm nhiều năm liên tục đạt danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh, làng còn rất nhiều dấu tích và hiện vật để chứng minh của một làng Việt cổ, từ lâu đời nay người dân trong làng đã sinh sống tạo dựng lên, những địa danh như tên xóm, tên làng, tên sông, tên núi, tên những xứ đồng gắn bó với địa danh của làng như: Gồ Bến Ông, Bến Thĩn, Bến Bà….. làng tôi thờ “Linh Thạch” Rồng chầu Hổ phục, có viên ngọc Rồng đến thành An Biên thời Triệu Việt Vương “Quang Phục”. Đặc biệt làng tôi có hai ngọn núi “Kim Lĩnh” có một hòn đá “Đình Chùa Ma” cớ sao mà hòn đá lại có tên như vậy ..? hòn đá to và nặng hàng chục tấn nằm chênh vênh lưng chừng bên sườn núi Kim Lĩnh, phía tây nam trước mặt Đình và Chùa làng, qua bao nhiêu đời người thăng trầm, với thời gian hòn đá này vẫn hiên ngang không bị trôi trượt. Vào những buổi chăn trâu thả bò bên sườn núi, nói đến hòn đá linh thiêng này chỉ nghe đến tên thôi mà chúng tôi đã sờ sợ, phải có đông đứa mới dám bén mảng tới nơi này, bọn trẻ chúng tôi phải cung kênh nhau mới lên đỉnh hòn đá ngồi được, đứng chạy nô đùa nhau trên hòn đá “Đình Chùa Ma” xen khe giữa hai quả núi, ngồi chơi hóng gió lúc nào cũng mát rượi, ở giữa hòn đá có một rãnh sâu khoảng 0,10cm, cắt ngang như muốn chia hòn đá ra làm hai, hoặc cái khe đá này lại là một điểm làm giấu mốc cố định chẳng hạn, vào ngày tháng nào dùng ánh sáng xuyên qua, hoặc dùng mắt nhìn qua khe chiếu đến chỗ nào, thì nơi đó có cất giấu của cải “ Nếu ngắm chiếu nhìn theo khe này, thì điểm cuối được dọi về Đền Cùng Giếng Ngọc” Còn nhỏ chúng tôi chỉ được các cụ kể lại chắc là dưới tảng đá ấy sưa kia có cất giấu vàng bạc, và những của quý vì vậy đặt gọi tên là “Đình Chùa Ma” ý là vừa là Đình vừa là Chùa rất thiêng, lại có Ma để không ai dám đến gần, khi quân phương bắc xâm lược bọn chúng đã lén lút định cưa đôi hòn đá để lấy vàng bạc nhưng không thành, đến những năm 60 chiến tranh chống Mỹ xâm lược, Trung Quốc đưa quân sang nói là giúp đỡ Việt Nam chống đế quốc Mỹ, hầu hết Trung Quốc đều đóng quân ngủ nghỉ ngày đêm tại Đình, Chùa và những ngôi đền của làng, chỗ nào có gồ đất cao lại thiêng bỏ hoang ít người dám lui tới, chúng đều đào bới với lý do làm hố công sự để bắn máy bay Mỹ, rồi một ngày chúng dùng mìn nổ phá tan hòn đá “Đình Chùa Ma” mà mọi người dân trong làng cũng không ai quan tâm để ý, đến ngày nay chỉ còn lại vị trí tên chứ không còn hòn đá “Đình Chùa Ma” nữa, không biết bọn chúng đã lấy được những gì ở khu đó.?
Một thời gian sau Trung Quốc rút hết quân về nước, những bô lão trong làng mới được bước vào Đình, Chùa kiểm tra xem xét và thốt lên câu, ông “Phật Thích Ca” ở Chùa đúc bằng đồng đen và những pho tượng Phật quý đã bị bọn chúng lấy và tráo đổi mất, những đồ thờ tự quý ở Đình làng như đôi “Hạc cổ” và vật dụng thờ tự khác cũng không cánh mà bay, vì những vật dụng đó đều được ghi bằng chứ Hán bọn chúng rất thông thạo, ngược lại người dân trong làng ít ai đọc được những chữ đó, một phần là do chiến tranh chống Mỹ ác liệt đất nước còn nghèo đói, người dân cũng không quan tâm vào những đồ vật thờ tự tại nơi Đình, Chùa…, dẫn đến một sự mất mát rất lớn các hiện vật cổ của làng.
Làng Diềm còn có địa danh là viên “Ngọc Rồng” mang dáng dấp “Rồng chầu hổ phục” và còn có rất nhiều nơi thờ tự linh thiêng, được dân làng tín ngưỡng như Đình Diềm mang đậm nét lịch sử văn hóa truyền thống của vùng quê Kinh Bắc, Đình làng được xây dựng năm nhâm thân 1692, thờ Ngài Đức “Giáp Ngọ” và ngũ vị tức gồm năm vị Thánh được dân làng tôn vinh là “Thành Hoàng Làng” nổi tiếng cả một vùng quê Kinh Bắc, mà từ ngàn xưa người dân cả vùng biết đến đã đi vào thi ca.
“Thứ nhất là Đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Bảng
Vẻ vang Đình Diềm”
Trong hai ngôi “Đình” trên đã có cung bậc ngôi thứ, để người dân có cái mà so sánh đánh giá nhất nhì, tại sao lại không xếp Đình Diềm là cái thứ ba..?, mà lại là “Vẻ vang” vì không thể có cái “Đình” khác như vậy để mà so sánh được, nên các nhà khoa học đều thống nhất đánh giá là ngôi đình “Độc Nhất Vô Nhị”. Đặc biệt là bức “Cửa Võng” đã được Vua Tự Đức phê chuẩn rất nguy nga tráng lệ, sơn son thếp vàng theo mô tuýp “Thập điện cửu trùng” đình thờ Đức “Giáp Ngọ” đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1964. Trước đây để mừng chiến thắng giặc Lương phương bắc xâm lược, nhà Vua đã tổ chức lễ hội vui mừng tại bản danh vào ngày 6 tháng 8 âm lịch, từ đó hàng năm người dân trong làng lấy ngày 6 tháng 8 là ngày hội làng, cả một chặng đường lịch sử vẻ vang hàng ngàn năm, nhân dân làng Diềm vẫn giữ gìn thờ phụng các Ngài và tôn vinh là Đức Thánh “Thành Hoàng Làng”.
Đồng thời Đình làng thờ Ngũ vị quan do Vua Cảnh Hưng đã phong tặng, trong đó có năm vị Quan[23]. Đến đời nhà Vua Khải Định vẫn tặng phong sắc riêng cho năm vị Quan trên, các Ngài đã có công trấn ải trên dòng sông Cầu “Sông Như Nguyệt” và lập lên những chiến tích đánh tan quân phương Bắc bảo vệ dân làng, để nhớ ơn công lao to lớn của các Ngài người dân làng Diềm đã tôn vinh năm vị Quan là Ngũ vị “Thành Hoàng Làng”. Sau nhiều năm Đình làng không được tu bổ sửa chữa kịp thời, nhiều hạng mục đã xuống cấp trầm trọng, năm 2023 nhà nước cấp kinh phí để trùng tu làm lại những hạng mục như, thay thế sửa chữa lại những hàng cột khung mái Đình đã xuống cấp, làm mới và khôi phục các hạng mục của ngôi đình như ngày sưa đã có, tôn nền và lát gạch sân Đình lên cao hơn mặt đường làng, xây lại mới hai ngôi nhà để người dân làm nơi sắp lễ và làm một số hạng mục phụ trợ khác. Đến tháng 01 năm 2024 “Tức tháng 12 Quý Mão” công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng, nhân dân trong làng và các quý khách thập phương rất hoan hỷ phấn khởi, đã cung tiến nhiều hiện vật tiền mặt để Đình làng thêm khang trang đẹp đẽ.
Vẫn trên đoạn sông Cầu, làng Diềm rất tự hào còn thờ hai vị Quan, cai quản trấn ải chống quân phương bắc bảo vệ dân làng, vẫn trên dòng sông “Như Nguyệt” tại hai điểm đầu và cuối làng, đó là ngài Đức Quan “Đô Thống” trấn ải phía Tây Bắc của làng khu ngã ba sông. Nghe các cụ xưa kể lại sau khi Quan Đô Thống cầm quân đánh thắng giặc rồi trở về trời. Để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài, người dân trong làng huy động nhân lực vật lực, xây dựng lên một ngôi đền nho nhỏ, ở ngoài bờ sông tại nơi Ngài đóng quân án ngữ, lấy tên gọi là “Nghè riêng”, nghĩa là đền thờ ngài Quan Đô Thống là của riêng người làng Diềm, mỗi khi về mùa mưa lũ nước sông Cầu dâng cao, đền thờ bị chìm ngập sâu trong nước, không thuận tiện cho người dân đến thắp hương cúng lễ. Sau đó nhân dân trong làng đã chuyển đền thờ Ngài vào bên trong đê, nơi thờ Ngài được đặt trên một khu đất cao, có nhiều cây cổ thụ quanh năm bao phủ tươi mát, nhờ công lao to lớn của Ngài tháng 11 năm 2012, khu và Chi hội NCT, đã mở rộng chỉnh trang lại khuôn viên xây mới ngôi đền thờ Ngài rất nguy nga tố hảo, hàng năm cứ đến ngày 03 tháng giêng, nhân dân trong làng lại long trọng tổ chức tế lễ, cúng giỗ tưởng nhớ ngày mất của Ngài tôn vinh Ngài là vị Đức Thánh “Thành Hoàng Làng”.
Vị Quan thứ hai là Ngài “Đức Thánh Tam Giang – ông Bảy Hựu” cầm quân cai quản trấn ải chống quân phương Bắc, bảo vệ dân làng đoạn sông Cầu phía Đông Bắc cuối làng, giáp danh giữa hai làng Diềm và làng Hữu Chấp, ơn sâu công lao to lớn của Ngài, người dân hai làng tập trung đắp tôn lên một khu đất cao ngoài bờ sông, và lập một đền thờ Ngài gọi là “Nghè Chung” của hai làng, đến ngày 6 tháng 8 hàng năm nhân dân “hai” làng lại hân hoan mở hội, tổ chức ngày giỗ của Ngài theo nghi thức trang trọng nhất. Các đội rước kiệu ngựa cờ hoa và các linh vật hiện có, dước Ngài từ “Nghè Chung” đi trên đỉnh con đê về Đình làng vui hội, Ngài được dân làng vinh danh là vị Đức Thánh “Thành Hoàng làng”.
Vua bà Thủy tổ Quan họ, Bà đã hạ giới xuống đất làng Diềm bà dậy người dân trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, dậy dân làng ca hát những làn điệu dân ca Quan họ. Để nhớ đến công lao to lớn của Bà, dân làng đã cùng nhau xây dựng một ngôi đền thờ Vua Bà, từ rất xa xưa ngôi đền được xây dựng rất đẹp, bao quanh khuôn viên đền được xây gạch nung bằng rơm rạ. Ngôi đền vua Bà được xây gạch nung khung gỗ lim mái lợp ngói ta, đền gồm ba gian rộng mặt tiền quay về hướng Tây Bắc, bên trong có hậu cung sâu đền thờ “Đức Thánh Nam Hải Đại Vương” và bà “Chúa” (Tức Đức Vua Bà) đã sinh ra những làn điệu dân ca Quan họ, cứ đến ngày 6 tháng 2 (âm lịch) ngày mất của bà, hàng năm nhân dân trong làng long trọng tổ chức mở hội với quy mô lớn, có hàng ngàn người ở khắp nơi về trẩy hội, hàng trăm người tham gia trong đoàn rước đầy đủ theo nghi lễ, để tưởng nhớ đến công lao to lớn của Bà nhân dân và các anh chị hai trong làng, cũng như các quý khách thập phương ở khắp nơi trong và ngoài vùng Kinh bắc, đã về vui trẩy hội và cùng nhau ca những làn điệu dân ca Quan họ. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày từ mùng 5 đến hết ngày 7 tháng hai (âm lịch) các anh hai chị hai cùng nhau ca thâu đêm suốt sáng vẫn chưa hết được câu Quan họ, tan hội rồi mà trong lòng vẫn còn sao xuyến rùng rằng chẳng muốn ra về. Đến sau này những năm thập niên 80 ngôi Đền xuống cấp cần phải tu sửa gấp, sau khi bàn bạc được nhân dân trong làng đồng tình nhất trí cao, sau khi nghe tin: Ông Bùi Cẩn Công người thôn Xuân Ái, đã xin được để tâm với số tiền rất lớn vào xây đền, ông Nguyễn Văn Tìm người trong làng cung tiến số tiền lớn, để xây hoàn chỉnh tường bao và chiếc cổng chỉnh của đền, ngoài ra dân làng đã cùng nhau công đức tiền bạc và nhiều hiện vật khác, ngôi đền được xây lên rộng rãi khang trang đẹp đẽ. Đền trước đây cửa mở quay lên phía bắc, nay được nhân dân thống nhất mở cửa đền quay mặt về hướng đông nam, cùng thống nhất chung một cụm di tích thu những luồng gió mát mẻ làm an tâm lòng người. Những làn điệu dân ca Quan họ ngày càng một vang xa, từ trong nước được lan tỏa ra toàn thế giới, nên năm 2009 được UNESCO vinh danh Dân ca Quan họ Bắc ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, và được UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt đề án triển khai “Chương trình hành động Quốc gia về bảo tồn phát huy di sản văn hóa Quan họ” nhân dân tôn vinh Bà là đức Thánh “Thành Hoàng Làng”.
Đền Cùng Giếng Ngọc đền thờ Mẫu Tam Phủ và Nhị vị Công Chúa, đền và giếng là một quần thể thống nhất ghép lại với nhau, người dân trong vùng thường gọi là “Đền cùng Giếng ngọc” Giếng Ngọc có từ thủa lập Viêm trang ấp do Công Chúa con gái Hùng Vương đời thứ 6 tạo dựng, từ khi có người dân lập lên làng ấp ngụ cư, giếng là nơi cung cấp nước ăn cho tất cả người dân trong làng hàng ngày sinh sống, để tưởng nhớ công lao to lớn của Nhị vị Công Chúa, ngày mùng 03 tháng 3 âm lịch hàng năm, người dân trong làng lại tưng bừng mở hội “Tát Giếng” trước ngày tát giếng làng tuyển những thanh nam nữ tú thanh tịnh, đứng thành từng hàng dọc từ trên xuống dưới, dùng thùng xô xách nước từ dưới lên cho đến khi giếng cạn hết nước, công tác vệ sinh thay nước mới, được làm theo nghi lễ truyền thống của làng, khi thực hiện các công việc vệ sinh giếng được hoàn tất, chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, các mạch nước ngầm từ trong lòng núi đã nhiệm màu chảy ra như những dòng sữa mẹ, chắt lọc tinh khiết và trong vắt, nước giếng không bao giờ cạn rất ngọt và thơm mát. Nguồn nước đã nuôi sống cả cộng đồng dân cư trong làng, ngày càng trở lên hưng thịnh, trong đền có bức hoành phi sưa đã ghi “Long tác linh” hàng ngày các quý khách thập phương về làm lễ cầu lộc, cầu tài, cầu bình an đều được linh ứng. Tôi còn nhớ ngày đầu Đại đức Tiến sĩ Thích Quảng Hợp về chùa Hưng Sơn lễ Phật, có ghé thăm vào làm lễ tại đền Cùng Giếng Ngọc được các cụ mời uống nước giếng trực tiếp, tại chùa Hưng Sơn hàng ngày cũng được các cụ lấy nước giếng Ngọc về thắp hương cúng Phật và dùng vào sinh hoạt, đại đức đã từng nhận xét: “Ở đây các cụ làm được bể chứa đựng nước giếng pha trà cúng Phật, mời khách ngon quá”.
Trong giếng có đôi “Cá Chép vàng ngàn năm tuổi” thể hiện như tình mẫu tử, đài truyền hình Việt Nam đã nhiều lần về đưa tin, trong ngày hội Đền các gia đình trong làng đều làm bánh khúc, bánh chông chênh trôi nước, và ca những làn điệu Quan họ quen thuộc trên quê hương Quan họ gốc. Đền Cùng Giếng Ngọc hàng ngày được đón tiếp rất nhiều khách thập phương, trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng và cầu mong những điều tốt đẹp, trong đền có bức Đại Tự ghi “Tới Linh Từ” vậy nên từ xưa đã có câu:
“Dù ai đi lễ tứ phương
Chi bằng linh hiển thắp hương đền Cùng”
Những năm 60 chiến tranh chống Mỹ xâm lược, Trung Quốc đưa quân sang giúp đỡ Việt Nam, đóng quân dựng nhà lán trại phía sau Đền Cùng Giếng Ngọc, và ngủ nghỉ sinh hoạt ngày đêm tại đó, khi chúng rút về nước để lộ ra những hố sâu, như những chiếc giếng khơi phía sau ngôi Đền tại trong nhà chúng ở, chúng đã ngấm ngầm đào từ khi nào và có ngụ ý gì..? mà không ai hay biết, vì khu vực chúng đóng quân luôn ngày đêm có lính canh gác, không cho bất cứ người dân nào được đến gần nên cũng chẳng ai được biết, các cụ trong làng phỏng đoán là bọn chúng đã dùng hòn đá “Đình Chùa Ma” là điểm dẫn, để chúng đã đào và lấy đi những gì quý giá được chôn cất giữ ở khu đó, khi lấy được của cải rồi chúng dùng mìn phá tan mất hòn đá “Đình Chùa Ma” nhằm phi tang.
Làng Diềm còn là miền đất “Tứ linh” nhiều nhà khảo cổ, nhà văn nhà thơ đã biết đến và viết lên những vần thơ ca ngợi quê hương như Đình Diềm, chùa Hưng Sơn, Đền Cùng Giếng Ngọc….Trong đó đặc biệt là ngôi chùa Diềm “Hưng Sơn Tự” từ thuở tôi còn nhỏ, cũng được nghe các cụ kể lại truyền miệng nhau, trước đây chùa làng được đặt tại bãi “Mả Bến” nay người dân còn gọi là khu “Chùa Đổ” vị trí tại phía Đông đầu làng (Nay là khu trạm xá) tiếp giáp với khu chùa đổ là một cái “Đầm” nước sâu rộng mênh mông chạy dài uốn lượn vòng tròn, điểm đầu từ xứ đồng “Đất Cát” chạy vòng đến xứ đồng “Thanh Ốc” của làng Diềm, tiếp giáp với đầu làng Hữu Chấp, hàng năm nước lưu thông từ sông Cầu chảy vào Đầm không bao giờ cạn, có rất nhiều cá tôm tự nhiên phát triển, trước đây còn thời bao cấp cứ đến khoảng tháng 11 – 12 hàng năm khi nước rút đổ ra sông Cầu, hợp tác xã lại tổ chức cho nhân dân đắp ngăn theo từng khúc Đầm một, rồi dùng khau giai gầu sòng ngày đêm cùng nhau tát cạn, để bắt cá tôm đem về sân kho chia cho xã viên trong làng, mỗi khi nước đầm cạn để lộ ra hai hàng đá xanh to đều nhau, xếp thành hàng thẳng chạy từ trên khu Chùa đổ xuống dưới dài khoảng vài chục mét. Trong lúc đợi chờ được xuống đầm để “Hôi” tôm cá, bọn trẻ chúng tôi thi nhau trèo nhảy trên những hàng đá đó, phía dưới bùn còn lẫn rất nhiều những thanh mảnh gỗ lim, ai nhìn thấy cũng quát mắng dọa là ở đây có rất nhiều “Ma” để chúng tôi sợ, nhắc nhở là không được dẫm chân bẩn lên những hòn đá ấy, vì đó là đường của Chùa làng xưa kia, nên khu “Mả Bến” hay được dân làng gọi tên nữa là khu chùa đổ. Đến nay đầm của làng vẫn còn đó, hàng đá xưa đã bị chôn vùi chìm sâu dưới đất, do HTX đã phân chia lô cho người dân làm đất ở, mỗi khi đi đến nơi này tôi vẫn hình dung được hàng đá đó, rất to và nặng găm xuống đất khó mà ai di chuyển được, có viên rộng đến hơn 1 mét, xếp thành hai hàng song song, viên nọ cách viên kia khoảng vài chục phân.
Về phía đông bắc nơi Chùa đổ là cái Đầm của làng rộng sâu quanh năm chứa đầy nước, để người dân trong làng thuận tiện sang canh tác bên cánh đồng Soi, cuối những năm 60 nhân dân đã đắp một bờ đất rộng từ bên này nối sang bờ bên kia, lấy tên là “Bờ đơm Cụ” và chia đầm thành hai gọi là đầm trong và đầm ngoài, đầm chạy dài hình vòng tròn ôm trọn lấy cánh đồng “Mặt Gương” nhìn tổng thể toàn cảnh cánh đồng, giống hệt như một chiếc gương tròn, dân làng vẫn gọi tên là cánh đồng “Soi”.
Quê tôi những cánh đồng rộng mênh mông bát ngát, ở những gồ đất cao rộng bỏ trống là chỗ đó có lập Đền thờ Miếu mạo, tại các vị trí này hàng ngày rất ít người lui tới, thường có những cây “Gạo” không rõ ai đã trồng mọc cao ngất, thân cây to như những chiếc gơ sần sùi, có rất nhiều gai nhọn hoắt, làm bọn trẻ chúng tôi không thể leo trèo lên được, to cao nhất vẫn là cây gạo tại khu “Mả Bến – Chùa Đổ” Cứ vào cuối mùa xuân tháng ba, từ rất xa đã trông thấy những bông hoa gạo nở đỏ vàng cả đầu làng. Chúng tôi hay đọc tháng ba mùa hoa gạo: “Bao giờ đom đóm bay ra, hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng”. Vào các buổi chiều bọn trẻ chăn thả trâu bò ở đó, chúng tôi chơi chạy nhảy nô đùa quanh gốc cây gạo, và lấy một cái “khẳn” khẳn là đoạn cành tre dài khoảng từ 0,30 – 0,40cm ném lên cành cây gạo, khẳn trúng và làm những nụ cùng hoa gạo rơi xuống đất, cả bọn thi nhau tranh cướp rồi chấm muối ăn. Hàng ngày có những đàn chim Sáo Sậu và chim Bồ Các, bay về đậu và làm tổ trên đỉnh cây gạo, chúng hót rất to và hay gọi nhau líu lo vang cả đầu làng, xua tan nỗi hoang vắng nơi Chùa đổ chúng bay lượn trên bầu trời, đậu cả trên lưng những con trâu bò để bắt con re con rận, đàn trâu bò hiền lành như cũng muốn kết bạn với chim Sáo, nhiều khi bọn tôi đi đến gần chúng cũng chưa hề bay đi, về sau này mọi người có tý chút mê tín dị đoan liên tưởng đến “Thần cây đa Ma cây gạo”. Vậy là cây Đa trong làng có nhiều người đến thắp hương cúng khấn cầu may cầu lộc cầu tài… còn thân phận cây Gạo cho là có “Ma” đến trú ngụ, nên bị phân biệt họ chặt bỏ đi hết, từ đó đến nay không còn những cây gạo ra hoa đỏ rực rỡ, và những đàn chim sáo về hót vui như xưa nữa.
(Hình ảnh cây gạo làng xưa)
Thiết nghĩ xét về địa lý của nơi ngôi Chùa đổ quang cảnh quả là đẹp, vì nơi đây trên bến dưới thuyền, nước từ sông Cầu dẫn vào Đầm quanh năm không bao giờ cạn, có lẽ mỗi khi nước sông Cầu dâng cao gây lên ngập úng, ảnh hưởng đến kết cấu của ngôi Chùa, kết hợp với hướng Bắc khí hậu về mùa đông sẽ không thuận lợi cho hoạt động tín ngưỡng của dân làng. Vậy ngôi chùa đã bị sập đổ và được dân làng di chuyển và xây mới vị trí tại phía Tây của làng.
Chùa Hưng Sơn ngày nay chắc được các vị cao niên, cao tay giỏi về phong thủy địa lý đã tìm và đặt Chùa tại vị trí này, mong Phật gia hộ dân làng ngày một hưng thịnh tốt lành. Nhờ vậy mà ngày nay người dân trong làng đã được thừa hưởng một thành quả to lớn, đó là cả một “Cụm di tích” được xếp đặt gần nhau thành một quần thể như Đình, Đền, Chùa, nghè, miếu rất đối xứng hài hòa với cảnh quan của làng, thuận lợi cho người dân và các khách thập phương về chiêm ngưỡng và vãng thăm.
Vào những thập niên 60 – 70 bọn trẻ trong làng chúng tôi, về mùa hè nóng bức hay mùa đông giá rét, thường kéo nhau ra Chùa làng chơi, vì ở nơi đây đất rất rộng lại có nhiều cây cối bóng mát, thoải mái cùng nhau chạy nhảy gào thét mà không ảnh hưởng đến ai, chơi chán lại chạy vào trong chùa cùng nhau nằm ềnh ra, lăn long lóc dưới nền lát gạch và lát đá xanh to, những viên gạch thổ hình chữ nhật dầy được nung chín bằng rơm rạ, tuy không được cùng màu cùng chất, nhưng nó được thống nhất một chất liệu của quê hương mát rượi, khi mùa đông đến gió rét kéo về, bọn trẻ chúng tôi vẫn tập trung ra chùa chơi, cứ mỗi khi bước chân vào tới chùa làng đã thấy sự ấm áp như được sưởi ấm trong vòng tay của mẹ. Thời đó chùa làng có diện tích đất rộng lắm, vườn tược mênh mông nhiều cây mọc hoang do không có ai trông coi chăm nom, về sau này HTX đã cử một ông ra ngủ trông coi chùa trả công theo từng vụ bằng thóc.
Tôi có ông Bác ruột, ông nuôi tôi từ nhỏ vào những năm 80 ông đã ở tuổi ngoài bát tuần rồi, vì chùa không có sư trụ trì dân làng cử ông ngày đêm ra trông nom và chấp tác, ông rất tích cực làm mọi công việc của chùa, còn các việc ở nhà ông phó mặc bỏ bê cho vợ và các con, ông rất tín về Phật pháp, ông thường dùng tiền trợ cấp ít ỏi của mình, vì ông được hưởng chế độ bố mẹ Liệt sĩ, để mua thêm hương nhang thắp tại chùa. Ông tự tạo một ban thờ “Hồ Chủ Tịch” ông nói với mọi người Bác Hồ là vị thánh thần cũng như là Phật, mỗi khi đi công tác được về thăm nhà là tôi lại đi ra chùa thăm Bác, lần nào ra ông cũng kể nhiều chuyện xưa về chùa, như là một nghề đã ăn sâu vào trong tiềm thức của ông, có lẽ ông lấy ngôi chùa là niềm vui của tuổi già. Ông rất thông minh và nhanh nhẹn, vui tính hòa đồng luôn được mọi người quý trọng, khi còn nhỏ ông đã được bố cho đi theo hát Quan họ ở các làng kết trạ, ông thuộc rất nhiều làn điệu Quan họ cổ và đã cung cấp truyền dậy cho đoàn Quan họ Bắc ninh, đặc biệt có một trí nhớ khá tốt tôi được nghe ông kể lại: Xưa kia chùa làng có một vị sư Tăng tên là “Tỳ khưu Hải Thuần – Thích Hạo Hạo” chắc sau này dân làng thường gọi Cụ là ông Sư “Quản Tăng”. Cụ trụ trì ở chùa làng rất lâu đời, cụ là vị cao tăng rất giỏi, nổi tiếng cả một vùng và có nhiều công lao đóng góp cho chùa làng. Cụ vừa có Tài, Tâm, Đức, Hạnh lại sinh sống trọn đời với dân làng Diềm, đến khi cụ mất để tỏ lòng ghi nhớ công ơn cụ, người dân trong làng và các phật tử khắp nơi đã để tâm chôn cất xây “Lăng mộ hay còn gọi là tháp Tổ” lăng Cụ được đặt theo hướng Đông Nam, Lăng xây theo dạng tháp to cao có từng tầng, vị trí lăng được đặt phía trước làng dưới chân núi Kim Lĩnh, nhân dân gọi tên là “Lăng cụ Quản Tăng” hàng năm nhân dân trong làng Diềm tổ chức làm cỗ cúng giỗ Cụ vào ngày 25 tháng 9 âm lịch. Ngày giỗ Cụ được tổ chức rất trang trọng theo nghi lễ nhà Phật, nhớ ngày Cụ mất tất cả dân làng và các Phật tử ở trong vùng, đều đổ về chùa Diềm làm lễ và thụ lộc rất đông vui hoan hỷ, có một hôm tôi nói chuyện với Thầy Thích Quảng Hợp, Thầy có nói: “Hôm trước tôi cùng chú Tuấn và ông Kim Tích lên chùa Bảo Quang (phường Nam Sơn, TP Bắc Ninh) tìm hiểu cũng thấy nơi chốn tổ này Thờ một tháp chung hai Tổ: Thiền sư Hải Thuần (Thích Hạo Hạo) cùng với Thiền sư Hải Khâm – Tuệ Nhãn, ngôi tháp rất cổ và thiêng liêng”[24].
Tôi còn nhớ ngày đó vườn chùa có cây thị cao ngất, phải ngước cổ lên mới nhìn thấy quả, do cây rất cao không ai trèo lên hái quả được, mỗi khi thị chín quả tự rụng rơi xuống đất, tôi phải dậy thật sớm chạy nhanh đến nơi cây thị, trước mặt tôi đã hiện ra một quả thị màu vàng óng trong lòng mừng rỡ, nhặt thị lên cầm nâng niu trên tay hướng vào chùa vái xin Phật, mừng vui mang về để cả nhà được thưởng thức mùi thơm lừng của thị, đến gần tối khi thị đã giảm mùi thơm, tôi dùng tay nắm mõm rồi cấu núm quả thị đưa lên miệng nhút từng chút một, vị ngọt thơm của thị cứ đọng mãi trên môi tôi, ngày đó xung quanh chùa không có hàng dào ngăn cách, mà chỉ có những hàng cây xương rồng của các gia đình giáp ranh trồng làm bờ biên ngăn cách, việc đi lại thoải mái chỗ nào cũng vào được Chùa. Do những năm chống Pháp hầu hết phần tường xây bao quanh đã bị phá bỏ, nhưng Chùa vẫn còn sót lại một cái cổng chính quay mặt về hướng đông nam, làng Diềm có hai cái cổng đó là cổng Đình và cổng Chùa, từ cổng Đình sang đến cổng Chùa cách khoảng gần 200 mét, đi trên một bờ lũy gọi là “Lũy làng” dọc hai bên bờ lũy là ruộng trồng lúa, bờ lũy làng rộng khoảng 2m, cao hơn bờ ruộng lúa khoảng hơn 1m, trên bờ lũy làng trồng hàng tre nhỏ thưa thớt để chắn giông gió, cổng chùa cũng được xây cao và đẹp như cổng Đình, khu vực khuôn viên tường rào bao quanh chùa được đắp bằng đất, lâu ngày từng đoạn bị sói mòn đổ nát, chỉ còn lại cổng chùa đứng chênh vênh một mình, thời gian phôi phai cổng chùa đã xuống cấp nghiêm trọng, do làng không có kinh phí để sửa chữa, cổng chùa đã bị đổ hỏng bỏ, còn lại chiếc cổng Làng phía tây dùng làm thay cổng của chùa như hiện nay ( Chiếc cổng này đã sửa lại phần mái). Trước đây khi vào cổng chùa phải đi qua đoạn mương thoát nước bằng đất, bắc qua đoạn mương là một phiến đá xanh to mặt đá tương đối phẳng, chiều rộng của phiến đá gần 2m dài khoảng 2,5m dầy khoảng 30 đến 40cm, không biết từ xa xưa các cụ đã vận chuyển những phiến đá này bằng phương tiện gì, và từ nơi nào mang được về đến đây, trong làng có rất nhiều phiến đá to như vậy đặt tại các điểm, như làm bậc cầu Hồ của làng và cầu ao của các xóm ngõ, những phiến đá xanh kích thước tương đối bằng nhau nặng hàng tấn trông rất đẹp. Vào qua cổng chùa là hai cây đa cổ thụ quanh năm tỏa bóng mát, những chiếc rễ đa cắm xuống đất trở thành những thân cây chắc nịch, có những chùm rễ đang từ trên cao rình rò thò xuống đất, đã bị bọn trẻ chúng tôi hàng ngày đánh đu làm rễ bị cụt hửng, không tài nào mà kịp cắm nổi xuống tới mặt đất. Hai cây đa cổ thụ cứ đến mùa là ra rất nhiều quả, quả đa ra thành từng chùm bám vào cành nhiều chi chít và to đều bằng nhau răm rắp, khi chín quả đa màu vàng ươm, bọn trẻ chúng tôi bẻ cả cành có quả xuống thi nhau chấm muối ăn, tuy chát xin xít nhưng vẫn ăn một cách ngon lành.
Ngày chúng tôi đi học văn hóa cấp 1 và cấp 2, thời gian này chiến tranh máy bay Mỹ ném bom đánh phá Miền Bắc rất ác liệt, trường lớp phải sơ tán di chuyển nhiều địa điểm khác nhau hết chỗ này lại đến chỗ khác, trường đang học tại vườn nhà ông“Cán” sau lại phải sơ tán di chuyển xuống trường ở “Điếm sau” bà Nghiêm rồi cuối cùng phải chuyển về Chùa “Hưng Sơn” học tiếp. Cả cấp 1 và cấp 2 đều học chung ở chùa, chùa làng Diềm lúc này dùng làm trường học, chùa to đẹp lắm lại nhiều tượng Phật bằng gỗ không biết có từ bao giờ, khi kê bàn ghế ngồi học, chiếc bảng đen thường bị che khuất bởi những hàng cột chùa to đùng, bàn học vừa bị siêu vẹo lại bập bênh cái thò cái thụt không được thẳng hàng, vừa bước vào lớp đã nhìn thấy những ông Phật Pháp màu vàng màu đỏ, có ông Phật thì ngồi ông lại đứng nhìn không chớp mắt, như thể đang theo dõi chúng tôi xem có bạn nào nói chuyện riêng, hoặc trong lớp có nhìn trộm cóp bài của nhau hay không, lớp tôi được nhà trường bố trí học vào các buổi tối, ngày đó làng chưa có điện nên khi đến lớp học, mỗi học sinh phải mang theo một chiếc đèn dầu. Những lúc ngồi học dưới ánh đèn dầu lấp lánh lập lòe, bên những ông Phật to nhỏ đỏ vàng lại càng thêm sợ, nhưng dần cũng thành quen. Ngày đó tôi là đứa nghịch có tiếng “Máu liều nhiều hơn máu não” nghịch những trò rất oái oăm, như khuân bê các ông Phật có thân hình vừa và nhỏ, dân làng gọi tên Phật là “Ông nhịn ăn mà mặc và ông Nhịn mặc mà ăn, cả ông Thích Ca Mâu Ni” và các ông khác ở trong chùa đều bị tôi bê ra ngoài, đặt các ông Phật lên những luống sắn trồng ngoài ruộng trước sân cửa chùa, nhằm để dọa cô giáo và các bạn gái, đôi lần tôi bị cô giáo phát hiện đánh cho một trận đau điếng, bắt phải khuân các ông Phật trả lại vào những vị trí cũ của chùa, có năm học do tôi nghịch quá đến cuối kỳ, xét hạnh kiểm kém bị nêu tên trước cả lớp.
Có những buổi đang học lại nghe tiếng báo động có máy bay Mỹ đến bắn phá, cô giáo hô to cả lớp tắt đèn tất cả tức khắc nghe theo cô ngay, trong lớp tối đen như mực không thể nhìn thấy mặt nhau, đã thế lại ngồi dưới bóng tối trong chùa, mỗi khi bom đạn nổ ánh sáng lóe lên, hoặc những lúc mưa gió sấm sét chớp nháy ầm ầm soi lẫn vào những ông Phật, làm chúng tôi đã sợ lại càng thêm sợ người cứ run lên cầm cập. Khi máy bay đi thông báo khu vực trở lại sinh hoạt bình thường, tất cả lại bật diêm đánh lửa thắp đèn tiếp tục học, rút kinh nghiệm những lần sau cô giáo không hô tắt hết đèn nữa, mà vẫn để vài cái đèn vặn nhỏ còn sáng đặt xuống dưới gầm bàn, khi máy bay Mỹ bay đi, chúng tôi đốt tiếp vào các đèn khác sẽ nhanh hơn, thời gian học của lớp từ 7giờ đến 9 giờ 30 tối, sau những buổi học đứa nào đứa nấy bị mực đổ ra, từ chân tay đến quần áo đều bị dây mực bẩn.
Năm 1971 mùa mưa nước sông Hồng dâng cao, vỡ đê Mai Lâm nước tràn về phía Bắc, nhìn dòng nước băng qua đường sắt chảy về khu vực xã Hòa long, chỉ trong vòng khoảng vài tiếng đồng hồ nước đã bao trùm trắng xóa, toàn xã nằm trong bể nước trong đó có làng Diềm, đường giao thông và các nhà dân đều bị ngập hết. Trước đó vài ngày cấp trên đã có kế hoạch và lên phương án, để lãnh đạo thôn về triển khai và bố trí chủ động cho nhân dân sơ tán lên hai ngọn núi “Kim Lĩnh” ở tránh lũ, nên khi sảy ra ngập lụt không có thiệt hại về người và tài sản, riêng chùa làng năm đó vì không có sư chủ trì không có người cai quản trông coi, nước lũ tràn về dâng cao ngập lụt sâu đến tận mái chùa. Do chùa nằm ở vị trí trước làng lại không có tường dào bao quanh, không có hàng cây chắn sóng gió, nên những con sóng to gió lớn ngày đêm thỏa sức đập vỗ ì ọp, làm những cánh cửa của nhà chùa bị long lở bung ra, bàn ghế học sinh tự do nổi trôi dập dềnh trên mặt nước cùng nhiều rác rưởi, kéo theo những ông Phật cổ bằng gỗ bị sóng nước xô đẩy ra ngoài nằm nổi khắp vườn chùa, tôi và một số người thấy vậy đã chèo thuyền ra, dùng dây buộc các ông Phật vào những cây xoan (Sầu Đông) trồng trong vườn chùa. Vài ngày sau lại nghe tin có người báo cho lãnh đạo trong làng biết, có một ông Phật của chùa làng Diềm bị sóng nước kéo trôi đến gần chân núi “Bãi cát”, thấy vậy Làng lập tức cử người dùng thuyền xuống khu vực làng Cổ Mễ xã Vũ Ninh chở ông Phật về chùa làng, khi nước rút các phật tử cùng nhau dọn dẹp bao sái, khiêng nâng những pho tượng Phật đặt vào đúng các vị trí cũ của chùa, thật lòng mà nói trong chùa làng ngày đó có tất cả bao nhiêu pho tượng Phật, quả là hầu như ít ai biết và để ý quan tâm mà chỉ nhớ mang máng vị trí nơi đặt tượng. Lý do cũng dễ hiểu thôi, toàn xã hội thời bấy giờ không coi trọng việc thờ cúng tâm linh, thậm trí còn bị bài xích phá dỡ bỏ hết Đền, Chùa, Miếu mạo. Tất cả đều theo phong trào chung của Bộ Văn Hóa là chống mê tín dị đoan, chủ yếu là động viên mọi người tập trung lo về kinh tế cung cấp lương thực, thực phẩm cho chiến trường Miền Nam, chứ phần tâm linh thì không được các tổ chức cá nhân nào quan tâm. Chùa ngày đêm không có ai cai quản trông nom hương khói, nên lúc nào cũng vắng tanh như câu “Vắng như chùa Bà Đanh”, chùa làng có đầy đủ các đồ thờ cúng quý hiếm, với ngày xưa mọi thứ đều cảm thấy rất bình thường, nhưng về sau này những vật dụng của chùa thì quả thật là rất vô giá, người đời thường có câu “Phú quý sinh lễ nghĩa” khi con người ta đã được đầy đủ về vật chất rồi, thì mọi vạn vật cổ tâm linh từ xa xưa càng trở lên giá trị và vô giá bội phần. Ở ngôi “Tam Bảo và nhà Tổ nhà Mẫu” đều có rất nhiều vật dụng cùng những pho tượng Phật cổ, được sắp đặt từ trên cao xuống dưới thấp theo ngôi vị, rất đồ sộ linh thiêng và nguy nga tráng lệ. Theo sử sách có ghi chùa thờ Đức “Ngũ Vị” đã có công lớn đối với làng nên được tôn vinh là “Thành Hoàng Làng”.
Ngoài ra tôi còn nhớ trong ngôi nhà Tổ có một gian nằm ở phía Tây gọi là gian thờ “Cụ Hậu” khi còn nhỏ tôi cũng không hiểu gian thờ “Cụ Hậu” là cụ nào, cụ thuộc dòng họ nhà ai nhà cụ ở chỗ nào trong làng, mà chỉ liên tưởng chắc là cụ chết tại chỗ này nên nhà chùa đặt gian thờ cụ, trong gian thờ này rất khác với các ban thờ ở trong chùa, mọi thứ bày biện để thờ đều được đặt dưới thấp, không cao ngang hàng với ban thờ Phật, lại có rất nhiều thứ từ dụng cụ đồ thờ đến đồ dùng phục vụ cho sản xuất sinh hoạt hàng ngày…Sau này tôi mới được các cụ cao niên phân giải để biết tên “Cụ Hậu” là một Cụ có từ lâu đời nay, trong làng cũng không ai còn nhớ mà chỉ được các đời trước truyền lại “Cụ Hậu” là người dân ở trong làng Diềm, cuộc sống hàng ngày của Cụ rất giản đơn khiêm nhường, Cụ luôn chắt chiu dành dụm được những của cải vàng bạc, ruộng vườn của Cụ lại rất nhiều, vì Cụ không có người con nào nối dõi đến khi sắp mất Cụ có ghi gia phả để lại, nguyện giao toàn bộ số vàng bạc của cải ruộng vườn hiến tặng lại cho nhà chùa quản lý và sử dụng, khi Cụ Hậu mất với tấm lòng hết mình vì đạo Phật của Cụ, nhà Sư trụ trì cùng dân làng đã giành riêng một gian trong chùa để thờ Cụ, nơi thờ này lấy tên cụ gọi là gian thờ “Cụ Hậu”. Về sau gia đình nào có của cải vật chất hiến vào chùa đều được đặt thờ chung vào gian “Cụ Hậu”. Chính từ đấy chùa Diềm có rất nhiều những thửa ruộng, để cho các nhà Sư chấp tác tại chùa hàng năm làm và thuê người trồng cấy, khi thu hoạch hoa màu về tập trung dùng vào việc cúng giỗ rằm tết của chùa rất viên mãn.
Sau khi cải cách chia lại ruộng đất, HTX đã lấy ra một số ruộng của nhà chùa, chia cho những người dân nghèo trong làng để làm ăn sinh sống, nên đến nay nhà chùa chỉ còn lại đôi thửa ruộng nhỏ.
Diện tích đất thổ cư vườn tược của nhà chùa trước đây rộng mênh mông, sân chùa được lát gạch đất nung vuông và gạch “Thất” chữ nhật dầy. Vào khoảng những năm 1968 – 1976 chùa và sân chùa được dùng làm cho các lớp học, vườn chùa được chính quyền địa phương cho chặt hết những cây trồng, để xây văn phòng UBND xã và trường học cấp I + II, một phần lớn được xây dựng làm sân kho của HTX hợp nhất, mỗi khi mùa màng thu hoạch lúa hoa màu HTX đều mang về chất đầy sân kho, tất cả tập hợp cân đối song rồi đem chia cho xã viên trong làng, sân kho còn sử dụng vào nhiều việc như tổ chức văn nghệ, chiếu bóng … các cháu thiếu niên nhi đồng tổ chức trung thu cắm trại …làng có việc gì như hội họp cũng đều tập trung ra ngoài sân kho, những năm sau xóa bỏ bao cấp, sân kho bị bỏ hoang chỉ còn lại những chiếc máy tuốt lúa của HTX để chổng chơ han rỉ, những ngôi Tam Bảo, Nhà Tổ, Nhà Trai, Nhà Mẫu, do không được quan tâm lâu ngày xuống cấp, dần trở lên hoang tàn cửa đi cửa sổ bị mối mọt gây hư hại trầm trọng, hàng ngày bọn trẻ tự do ra vào nô đùa trèo leo nghịch phá, làm nhiều bức tượng Phật đã hỏng, cả tay chân thân hình Phật cũng bị bể gẫy và bệ đài sen cũng cùng chung số phận… những đồ thờ tự cổ bị bọn trẻ con mang ra ngoài chơi gây hư hỏng thất lạc dần mất mát hết.
Sau khi xóa bỏ giải thể không còn HTX hợp nhất, làng đã lấy diện tích đất sân kho và vườn tược trước đây thuộc của nhà chùa, chia làm đất ở cho các hộ trong làng, từ đó khuôn viên diện tích đất của nhà chùa trở lên hẹp lại. Trong chùa thờ những pho tượng gỗ quý như pho A Di Đà và pho Đức Thế Tôn, Quan Âm, Thế Trí, Thánh giả A Nan to lớn uy nghi lắm, do thiếu trách nhiệm thiếu quan tâm của các cấp trong làng, chùa không có sư về chấp tác không giao cho ai quản lý, nên các ngôi nhà thờ tự đều xuống cấp một cách trầm trọng, ngôi Tam Bảo và nhà Tổ phần mái sắp sụp đổ ít ai dám đi vào làm lễ, nhà Trai nhà Mẫu cũng đều chung cùng số phận, nhất là các pho tượng Phật cổ đã bị mất mát, thất lạc với số lượng rất lớn mà không ai biết, còn lại một số đồ vật bị hư hỏng không có ai đề xuất khôi phục mà lại đem “Hóa” hết, thật là của chung không ai có trách nhiệm, những người có tâm huyết cảm thấy đau sót vô cùng, một số người thì vô cảm, buông những câu là “Mất thì thôi” quả là một điều khó chấp nhận được.
Đến tháng 8 năm 2003 ông “Nguyễn Tiến Vượng” sống tại phố Kim Ngưu, Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội là chủ một doanh nghiệp, vào một hôm ông ghé thăm chùa làng trước một quang cảnh rất đẹp, nhìn thấy ngôi “Chùa Hưng Sơn” đã xuống cấp trầm trọng, với bản năng nghề nghiệp sẵn có, ông mạnh dạn tìm gặp và đề xuất với lãnh đạo thôn cùng chi hội Người cao tuổi, với nội dung ông xin để tâm công đức toàn bộ kinh phí, và có những người thợ chuyên sâu với tay nghề cao, ông xin xây dựng mới một ngôi nhà bảy gian[25] thờ cả Tổ và Mẫu (Vị trí sau Tam Bảo cũ) thay ngôi Tổ đường cũ đã bị xuống cấp. Sau khi bàn bạc giữa Lãnh đạo và chi hội NCT đi đến thống nhất, Lãnh đạo khu và chi hội NCT tổ chức cử một số người đại diện đến tận doanh nghiệp của ông Nguyễn Tiến Vượng để tìm hiểu thêm, qua các đợt làm việc hai bên nhất trí thống nhất, thể theo nguyện vọng của ông Vượng xin được cống hiến toàn bộ kinh phí cho đến khi hoàn thành ngôi chùa, vào một ngày đẹp, giờ lành tháng tốt sẽ khởi công công trình, ông Nguyễn Tiến Vượng đã chuyển vật tư và tổ thợ về chùa làng để thi công, Lãnh đạo khu và chi hội NCT đã cử người ra giám sát theo dõi các công việc hàng ngày tại chùa, tổ thợ thi công liên tục trong một thời gian gần 12 tháng công trình đã hoàn thành. Khoảng năm 2006 nhân dân địa phương cùng thập phương lại xây tiếp ngôi chính điện (Tam Bảo) thờ Phật như bây giờ. Được các cụ “Bô lão” trong làng đánh giá cao về hình dáng và chất lượng công trình, khi chùa làng đã được khang trang. Thể theo nguyện vọng của nhân dân cũng như hai giới các cụ trong làng, được sự quan tâm của chùa “Chân Tiên” Hà Nội, sau khi được ông Nguyễn Tiến Vượng giới thiệu. Tháng 11 năm 2003 sư cụ Thích Đàm Nhuận chùa Chân Tiên Hà Nội đã cho Ni cô Thích Diệu Thủy về chấp tác tại chùa Diềm, từ đó chùa làng đã có Sư Ni về trụ trì, mọi hoạt động phật giáo tín ngưỡng được đi vào khuy củ có nền nếp. Hàng ngày Sư Thủy giáo hóa cho các phật tử trong làng hiểu biết thêm về Phật Pháp, các ngày lễ tiết lệ làng được duy trì đều đặn, trong 9 năm Sư Thủy cùng hai giới các cụ trong làng đã góp phần làm được rất nhiều việc có ý nghĩa để lại những dấu ấn như:
- Thành lập ra đội Kinh thường xuyên ra chấp tác phục vụ tại chùa.
- Đắp một số pho tượng mới, tô lại toàn bộ các pho tượng cũ.
- Cùng nhân dân đúc một quả Chuông mới nặng khoảng 500kg.
- Sắm một chiếc trống hạng trung và một số các hạng mục khác để chùa làng ngày thêm tố hảo.
Ngược lại trong thời buổi cả xã hội lại đang sùng bái về tâm linh “Phú quý sinh lễ nghĩa” Dẫn đến nhiều vụ kẻ gian lấy cắp các pho tượng Phật xảy ra ở khắp mọi nơi, một số ngôi chùa lân cận trong phường Hòa Long cũng bị kẻ gian đột nhập, lấy mất Phật và các đồ thờ tự trong đó có chùa Diềm, bọn chúng lợi dụng chùa Diềm có Sư Ni phận nữ yếu mềm, chỉ trong vòng một đêm kẻ gian đã lấy đi sáu pho tượng Phật cổ bằng gỗ, sau này chùa lại tiếp tục bị kẻ gian đột nhập lấy mất Phật, khi bước chân vào trong ngôi chùa làng, trước mắt đã cảm thấy trống vắng ai nấy đều không khỏi sót xa, người dân trong làng nháo nhác sôn sao tức giận, rất bất bình chỉ mong các cơ quan chức năng vào cuộc, tìm lại những pho tượng Phật trên sớm được trở về với chùa làng, qua thời gian dài chờ đợi đều chở nên vô vọng bặt vô âm tín, cá biệt có người dân trong làng vì tiếc quá mà đồn đoán những tin ác dữ bán tín bán nghi, có người còn vu khống nghi ngờ cho là “Sư Thủy” có ý này ý khác, chắc là do không chịu nổi áp lực của quần chúng nhân dân. Sư cô Thích Diệu Thủy đã làm đơn xin trả lại chùa cho làng, hai giới các cụ và lãnh đạo khu tới động viên nhưng Sư Thủy vẫn một mực thể theo ý nguyện của mình.
Tháng 12 năm 2012 Sư cô: Thích Diệu Thủy nộp đơn gửi lãnh đạo khu và chi hội NCT hai giới các cụ, xin bàn giao toàn bộ chùa trả lại cho làng để đi nơi khác, trước tình cảnh cấp bách này Lãnh đạo khu giao cho chi hội NCT đảm nhận và điều hành chùa, chi hội NCT phải cử người thay nhau ngày đêm trực và duy trì hương khói ở chùa, mỗi khi làng có việc nhỏ to đều phải cử người đi Thỉnh Sư ở chùa khác về làm lễ giúp rất thụ động vất vả và phức tạp.
Ngày này tháng khác thật chẳng đã, chi hội NCT đã làm đơn gửi Hội Phật giáo tỉnh Bắc Ninh với nội dung xin “Thỉnh Sư” về chùa Diềm chấp tác, qua một thời gian dài vẫn không có kết quả, chỉ nhận được trả lời với nội dung hãy chờ đợi sau và cho phép làng tự tìm lấy Sư, thông qua cấp Ủy chi bộ đảng, tháng 2 năm 2013 lãnh đạo khu có văn bản cho phép chi hội NCT tự đi tìm “Thỉnh Sư” về chùa làng chấp tác, trông nom.
Sau một thời gian dài lặn lội và được nhiều người giới thiệu, đã có 3 Sư Tăng về chùa làng vãng thăm tìm hiểu. Thầy nào cũng rất mến và mong duyên được về chùa Diềm chấp tác, qua các cuộc họp giữa lãnh đạo khu và hai giới các cụ, giao cho chi hội NCT xem xét quyết định.
Tháng 6 năm 2014 chi hội NCT đã gặp duyên tìm được Đại đức “Thích Quảng Hợp” Sinh năm 1980, quê xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng, hiện đang trụ trì chùa Cảm Ứng núi Thiên Thai huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh, sau khi chi hội NCT báo cáo và được sự nhất trí của các cấp lãnh đạo khu. Vào một ngày đẹp trời lãnh đạo khu và chi hội NCT tổ chức đi đón Đại đức Thích Quảng Hợp về làng thăm và gặp mặt làm việc, qua cuộc họp tiếp xúc giữa Đại đức với lãnh đạo khu cùng chi hội NCT, tất cả đều hoan hỷ nhất trí đồng ý, mong Đại đức bố trí một ngày gần nhất về nhận bàn giao và chấp tác trụ trì tại chùa Diềm. Các thủ tục về pháp lý đã được từ khu đến chính quyền UBND xã Hòa Long hoàn thiện, và gửi báo cáo lên cấp có thẩm quyền.
Ngày 5 tháng 9 năm 2014, chi hội NCT cùng đại diện lãnh đạo và các ban ngành trong khu, tổ chức công tác bàn giao tài sản hiện vật của nhà chùa, Đại đức Thích Quảng Hợp đã nhận đầy đủ, sau khi Đại đức về nhận trụ trì chùa Diềm, do Đại đức được đào tạo bài bản, có trình độ am hiểu cao về Phật pháp, trẻ tuổi tu tâm tích đức có tầm nhìn rộng đầy nhiệt huyết, hăng hái trong các công việc chuyên môn, Nhìn ngôi chùa “Nhà tổ” cổ đã được nhân dân di chuyển hết những đồ thờ tự và các pho tượng cổ đến vị trí nhà khác cho an toàn, chỉ còn lại xác của ngôi “Nhà tổ” do đã bị xuống cấp trầm trọng hiện bỏ không, đang trong giai đoạn chờ ngày xập đổ. Qua khảo sát xem sét thực tế với kiến thức sẵn có của mình, Đại đức ngày đêm chăn chở, không thể đứng nhìn chờ ngày ngôi chùa xụp xuống. Đại đức đã mạnh dạn bàn bạc đề xuất với các cấp lãnh đạo khu cùng chi hội NCT, xin cho được đứng ra cùng khu và chi hội NCT trùng tu lại ngôi chùa cổ đang bỏ hoang thành “Nhà Tổ” mới.
Sau khi Đại đức lên phương án xây dựng, được Cấp ủy chi bộ khu cùng hai giới các cụ đồng tình nhất trí cao, công trình đi vào khởi công xây dựng, Đại đức đã tìm tổ thợ ở nơi khác có tay nghề cao chuyên môn về XD chùa, ngôi Nhà Tổ xây mới được tận dụng một phần gỗ cũ của chùa còn rất tốt, còn thiếu Đại đức đã lặn lội đi tìm mua bổ xung thêm. Ngôi nhà tổ cũ gồm 5 gian mái lợp ngói, các hàng cột to đều nhau tăm tắp khung và mái tất cả đều được làm bằng bằng gỗ lim. Ngôi Nhà Tổ (Chùa cũ) đã chịu đựng qua hai lần ngập lụt vào năm 1957 và 1971, trải qua hai thời kỳ chống Pháp chống Mỹ đến nay chưa lần nào được tu sửa, hiện chùa nằm trên nền đất thấp đọng nước quanh năm ẩm thấp, phần chân cột đã bị mục nát, phần khung mái có hạng mục bị hư hại nặng, nhiều chỗ đã bị gẫy gây dột nát, nhà tổ đã được các cụ di chuyển hết Phật và các đồ thờ tự đi chỗ khác, hiện Nhà Tổ dùng làm nhà kho đựng dụng cụ sinh hoạt của nhà chùa. Để đảm bảo an toàn đến tính mạng của các phật tử mỗi khi cần vào nhà Tổ, chi hội Cựu chiến binh khu đã hai lần tổ chức lao động, tháo dỡ phần mái bị hỏng, cào bớt ngói xuống bỏ đi để giảm tải tránh sập gây tai nạn cho Phật tử, đã có ý kiến của đảng viên trong một cuộc họp chi bộ, đề nghị cho mua lưới thép về quây quanh chùa cũ không cho ai được vào trong nhà đó, chờ khi ngôi Nhà Tổ này đổ sập xuống sẽ mang toàn bộ vật liệu đó đổ xuống dòng sông Cầu.
Sau khi về trụ trì Đại đức Thích Quảng Hợp ngày đêm ưu phiền, nhìn ngôi chùa cổ quý vô giá đang bị bỏ hoang chờ ngày đổ sập, trong tâm Thầy bất an không thể đang tâm nhìn chờ số phận của ngôi chùa cổ quý đi vào dĩ vãng. Thầy thường tâm sự trao đổi gặp gỡ, tham khảo lấy ý kiến các cụ cao niên trong làng như cụ Trụ, cụ Kha, cụ Hộ…. trực tiếp cùng ông Vạn chi hội trưởng NCT và nhiều cụ khác các cụ đều đồng lòng ủng hộ. Thầy đã mạnh dạn đề xuất kịp thời với cấp Ủy đảng Lãnh đạo khu cùng Chi hội NCT, cho phép để “Thầy” được đứng ra chịu trách nhiệm chính, kết hợp với Khu và chi hội NCT cử người giám sát trong việc trùng tu ngôi “Chùa cổ” để khôi phục nhà thờ Tổ. Ngoài tập trung kinh phí của Khu và kết hợp với sự công đức của nhân dân trong làng, cùng các quý khách thập phương, Thầy đã kết nối với các tổ thợ có chuyên môn cao đến thực địa, lập bản vẽ thiết kế và trình biện pháp thi công, Thầy báo cáo cấp Ủy đảng Lãnh đạo khu và Chi hội NCT, qua một thời gian công trình đi vào thi công cả ngày đêm một cách rất khẩn trương, phần kinh phí có lúc còn thiếu không đáp ứng được, Thầy phải đi vay mượn của các phật tử trong và ngoài làng để kịp phục vụ thi công công trình.
Chỉ trong một thời gian ngắn công trình “Nhà Tổ” đã hoàn thành đẹp đẽ khang trang tố hảo, với sự quyết tâm rất lớn của Đại đức cùng lãnh đạo các ban nghành khu, ngôi “Nhà Tổ” cổ sưa đã được hồi sinh trong sự hân hoan của nhân dân trong làng.
Tác giả cùng Đại đức chụp trước nhà Tổ – 2015
Điều đặc biệt là khi công trình Nhà Tổ lên kế hoạch xây dựng, trong khuôn viên nhà chùa có một chiếc ao, thường chứa bèo và nước thải của các gia đình sống xung quanh đổ xuống rất hôi thối gây mất vệ sinh môi trường, Thầy đề xuất kiến nghị với lãnh đạo cùng ban ngành trong khu, xin được cải tạo xây dựng để biến ao tù thành ao sen, có lầu thờ Quán Thế Âm Bồ Tát mong luôn che chở cho nhân dân được bình an. Sau khi bàn bạc thảo luận rồi đi đến thống nhất, Lầu Quán Âm đã được duyệt và động thổ xây dựng cùng ngày giờ với Nhà Tổ như trên tôi đã nêu. Khi ấy tôi đang là Chi hội trưởng người cao tuổi trong khu, tôi cùng các phật tử cũng chấp tác tham gia lao động công ích, khuân đá vận chuyển đất cát giúp nhà chùa, mọi người cùng nhau lao động rất đông vui phấn khởi, nhiệt tình với các công việc hàng ngày trên công trình càng làm càng hăng say, không biết mệt mỏi như đã có Bồ Tát gia hộ vậy.
Lễ động thổ nhà Tổ & Lầu Quán Âm chùa Hưng Sơn, 2015,
Ảnh: Diệu Trinh
Qua bao nhiêu ngày tháng hai công trình Nhà Tổ và Lầu Quán Thế Âm đã hoàn thành đi vào sử dụng, rất uy nghi tráng lệ phù hợp với cảnh quan của nhà chùa, ao chùa phía trên cao ở giữa có bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, xung quanh là hàng lan can và đôi rồng bằng đá xanh ngự hai bên cổng lầu, để an toàn cho mỗi khi các phật tử đi dạo tham quan, phía dưới nước thả sen và cá vàng bơi lội trông rất sinh động.
Hình ảnh Lầu Quán Âm, sen gốc từ Tây Hồ Hà Nội – 2023
Sau khi “Lầu Quán Thế Âm Bồ Tát” được hoàn tất đi vào hoạt động, được Phật tử và nhân dân trong và ngoài làng rất viên mãn hoan hỷ.
Do nền Ngôi “Tam Bảo” Chùa làng nằm trên diện tích đất có rất nhiều mối, mối đã hủy hoại một số tài sản của chùa. Đại đức đã cùng phật tử đi tìm người diệt hết mối, trong một thời gian dài nay không còn mối nữa, thấy vậy một gia đình phật tử ở trong làng đã để tâm cung tiến, lát toàn bộ nền ngôi “Tam Bảo” sàn bằng loại gỗ “Căm xe” trị giá khoảng 4 cây vàng SJC, các Phật tử đều hết lòng ca ngợi thán phục từ khi có đại đức Thích Quảng Hợp về trụ trì, chùa làng ngày một khang trang tố hảo hơn.
Nhà chùa và tác giả dự lễ tín chủ cúng lát nền gỗ Tam Bảo, 02/2020
Đại đức Thích Quảng Hợp chưa thỏa mãn với bản thân mình, thấy chùa vẫn còn những diện tích đất bỏ trống, nay chùa chưa có bếp và nhà kho để chứa đựng các vật dụng chung, rất bất lợi cho mỗi khi nhà chùa có việc và tổ chức các nghi lễ. Nên Đại đức lại một lần nữa đề xuất với lãnh đạo Khu và chi hội NCT, cho xây dựng một ngôi nhà bếp trên một khu đất bỏ trống, sau khi thống nhất Đại đức xin đứng ra nhờ thiết kế tìm thợ thi công, trong một thời gian thi công liên tục, công trình đã nhanh chóng hoàn thành đi vào sử dụng. Các công trình phụ trợ đều được Đại đức sửa sang làm mới như tôn cao lát gạch toàn bộ sân chùa bằng gạch nung đỏ, quy tụ động viên các phật tử chăm sóc trồng cây trồng hoa, vườn chùa trở lên sạch đẹp khuôn viên quanh nhà Chùa như nét cảnh ở tây phương hiện về.
Năm – 2023 Gắn biển Chùa Hưng Sơn
Ngoài ra, Đại đức đã cùng các phật tử tham gia vào làm công tác từ thiện như, thành lập một nhóm thiện nguyện đi quyên góp hàng hóa lương thực thực phẩm, tổ chức thành đoàn mang tên chùa Hưng Sơn đi vào miền trung cứu trợ đồng bào bị lũ lụt tháng 11năm 2020, và hàng tháng duy trì tặng quà từ thiện cho khoa ung bướu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh và nhiều địa điểm khác.
Đoàn Thiện nguyện Chùa Hưng Sơn thăm cứu trợ lũ lụt Miền Trung 11/ 2020
Nhiều khi Đại đức thường trăn trở với mọi phật tử trong làng, theo ý nguyện Đại đức muốn xây mới một chiếc cổng Tam Quan trước chùa làng, vừa có gác Chuông lại thêm phần khang trang của chùa, Đại đức đã nhờ người thiết kế có bản vẽ rồi, trình lãnh đạo khu và chờ mong ngày được khu phúc đáp.
Bản thân tôi cũng đã được lui tới nhiều ngôi chùa trong nước và nước ngoài, nơi nào chùa cũng đều có chiếc cổng Tam quan rất uy nghi tráng lệ, thiết nghĩ chùa Làng mình nằm trên khuôn viên di tích lịch sử, là nơi danh lam thắng cảnh rất đẹp, mà được lãnh đạo cùng dân làng sớm đầu tư xây một chiếc cổng Tam Quan, ở trên cổng có gác treo chuông, mỗi buổi sớm hoặc khi nhà chùa có việc, chuông được thỉnh lên tiếng chuông ngân vang bay xa, tăng thêm sự ấm cúng của Phật pháp với người dân trong làng, như rất nhiều tác giả đã viết những bài thơ về “Tiếng chuông chùa” mà tôi đã được đọc.
Trên đây là những gì mà tôi còn nhớ được, cũng xuất phát từ con tim của phật tử là người con làng Diềm, những gì tôi đã được các cụ kể lại, và từng trực tiếp hoặc gián tiếp chứng kiến. Tôi xin tâm sự về chùa về làng, trong khi viết bài chắc không sao tránh khỏi sơ xuất, mong các vị cao minh góp ý và hoan hỷ.
Nhân mùa Phật đản PL: 2568 – DL: 2024, tác giả xin nguyện cầu Phật gia hộ nhân dân luôn mạnh khỏe, an vui, hạnh phúc.
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Làng Diềm, ngày 24 tháng 05 năm 2024
Chùa Diềm – Đi Rồi Lại Muốn Quay Về
Tác giả: Viên Quang – Đinh Anh Tuấn
***
Đúng là như thế. Với người dân sinh ra và lớn lên ở mảnh đất thấm đẫm tình người này, thì dù đi đâu rồi cũng lại muốn quay về. “Đất vua, chùa làng” – Câu chữ ấy, cùng với vẻ trầm mặc, uy nghiêm của những pho tượng cổ, của những tiếng chuông với thanh âm vang đầu xóm cuối làng, chiều rồi lại sáng như khiến lữ khách đến, đi, xa, xa vạn dặm vẫn háo hức để hơn một lần được quay trở lại.
Chốn già lam tên Hưng Sơn
Chùa Diềm, còn gọi chùa làng Diềm có tên chữ là Hưng Sơn tự (chùa Hưng Sơn) nằm ở khu Viêm Xá, phường Hoà Long – Thành phố Bắc Ninh – Tỉnh Bắc Ninh ở hiện tại. Chùa Diềm tọa lạc bên trái con đường dẫn vào đền thờ Vua Bà. Theo lịch sử, chùa Diềm có thể được xây dựng và tồn tại từ thế kỷ thứ VI. Tài liệu chính xác nhất về quá trình tồn tại của chùa Diềm được lưu lại trên quả chuông đúc năm Phúc Thái thứ 7 ở trong chùa. Ngoài ra, chùa Diềm còn lưu giữ được 2 tấm bia đá là năm Chính Hòa thứ 4 (1683) và năm Cảnh Hưng 38 (1777) ghi dấu quá trình tồn tại và trùng tu ngôi đại hùng bảo diện. Với những bằng chứng lịch sử trên, có thể khẳng định sự hiện diện của chùa Diềm có trước năm 1649. Trải bao thăng trầm, phong hoá của thời gian, đất rồi người, có thể đã nhiều lần thay đổi bởi cuộc vô thường, nhưng chùa Diềm vẫn như một bảo chứng xác thực việc tồn tại cùng trời đất. Không tránh khỏi những biến thiên của lịch sử, mái chùa nhiều khi rêu phong, rã nát, để rồi cùng với người dân bản xứ, cũng như nhiều đời chư Tổ tu hành ở đây, đã, đang và luôn gìn giữ, trùng tu, xây dựng, nhằm bảo vệ ngôi chùa mãi tồn tại với con người, với cuộc đời. Tinh thần này, cũng có thể ví như một bằng chứng lịch sử, phản ánh sự cang cường của những bậc tu hành, con dân của làng Diềm luôn hết mình để gìn giữ và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc qua các thời kỳ dưới mái chùa uy nghiêm.
Lữ khách và xúc cảm
Lần đầu tiên viếng thăm, tuy nằm giữa chộn rộn của của cuộc sống chung quanh, nhưng khi bước chân vào tới phạm vi chùa Diềm, tôi đã có được thứ cảm giác vô cùng đặc biệt. Lần lần, cái cảm giác đặc biệt ấy được nhân lên, quyện với mùi hương trầm tỏa ra từ lầu Quan Âm bên tay trái của chùa, khiến sự an nhiên sống dậy. Tôi không thêm bớt, hay nói quá, nói cho sướng miệng. Và, để xác thực phải có dịp ghé thăm mới cảm nhận đủ cái nhân duyên đẹp đẽ ấy, chúng ta mới có thể tường tận ngọn ngành. Ngôi chính điện, nhà Tổ, nhà Mẫu vẫn lối kiến trúc xưa. Hoành phi, câu đối, cả những cây cột bằng gỗ nữa phác họa mỗi thời kỳ lịch sử như đốn tim lữ khách đến thăm. Lắng lòng, rồi chắp tay cung kính đỉnh lễ tam bảo, chư vị hiền thánh, mọi ưu phiền, khốn khó, quăng quật, vật lộn nơi cuộc sống tựa gió thoảng, mây bay. Tiếng mõ, tiếng chuông, cùng tiếng í ới của bà con Phật tử ra chùa lạy Phật, làm công quả khiến nơi này thật gần gũi. Chỉ kịp vài câu chào hỏi, nói cười, lữ khách lần đầu đến chùa đã thấy tình người thấm đẫm. Giữa chốn mênh mang, tiếng nói, tiếng cười mỗi lúc mỗi xốn xang. Không chỉ chào khách “Nam mô A di đà Phật!”, những câu quan họ “vang – dền – nền – nảy” cũng được cất lên. Đất quan họ mà, nơi sinh ra câu quan họ mà, nghe bảo sao mà chẳng ngọt ngào. Chưa kịp mang áo tứ thân, đội nón quai thao, nhưng tiếng hát đã khiến tất cả cùng hoà nhịp đập con tim. Có cả liền anh, liền chị, và cả liền cháu, liền con. Cái nôi sản sinh câu quan họ được tiếp nối từ đời này sang đời khác, để tiếng hát mãi bay, bay đến tận thăm thẳm trời xanh.
Nhà Báo Viên Quang chụp ảnh tư liệu về sư Tổ Hải Thuần tại chùa Bảo Quang, 2023. Ảnh: Văn Thành
Thầy trụ trì ở đây còn trẻ lắm. Thầy mới ngoài tứ tuần. Thầy mang pháp danh Thích Quảng Hợp, thế danh Trần Văn Thành. Thầy sinh ra và lớn lên ở xã Chính Mỹ – huyện Thuỷ Nguyên – Thành phố Hải Phòng. Thầy xuất gia tu học tại chùa Tảo Sách ở đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ – Thủ đô Hà Nội. Thầy về trụ trì và đã gắn bó với ngôi cổ tự này mười mấy năm rồi. Chùa có sư, như các cụ, các bà chia sẻ thì con dân trong làng vui và hạnh phúc nhiều lắm. Chuông chiều, mõ sớm cứ lên bổng xuống trầm, từng nhịp đi cùng ngày tháng năm. Về chùa chắp tay chào Thầy, lên chùa lễ Phật, lễ Tổ, lễ hiền thánh giúp những được mất, hơn thua dần được tháo gỡ và chuyên tâm học, hành để buông bỏ việc ác, tạo tác nhân lành. Ngoài sáu thời tụng niệm, Phật tử già trẻ còn được tìm hiểu về giáo lý Phật đà qua các buổi chia sẻ về Phật pháp mà thầy trụ trì sẻ chia. Những bài học về giáo lý dần được mở rộng mỗi ngày mỗi lớn, rộng hơn. Bên cạnh việc học và hành lời Phật dạy, những phong trào như: Giúp người trẻ đi chùa tham gia các buổi bảo vệ môi trường, bằng cách nhặt rác chung quanh khu vực mình sinh sống. Hay chia sẻ bữa ăn yêu thương tới những người sống lang thang, cơ nhỡ về đêm, tặng bánh khúc tự tay làm cho các bệnh nhân ung thư tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh (diễn ra mỗi tháng 1 lần), cũng như phát động phong trào thể thao với đời sống, mà điển hình là giải bóng chuyền hơi đã và đang lan tỏa trong đời sống thường nhật của địa phương luôn luôn được cổ xúy.
Tác giả Viên Quang cùng thầy Hợp đang thiền thực. Ảnh: Trần Quân
Đón ngày mới, khi sương sớm còn bảng lảng, cất bước chân nhè nhẹ quanh nơi mẹ hiền Quan Âm Bồ Tát đang đứng đưa mắt nhìn cuộc đời, dù cái lạnh được cho là tê tái của mùa đông chẳng thấm, chẳng thía vào đâu. Bữa cơm chút đậu, chút rau khiến như đang được bưng bát cơm nhà. Mùi thơm, vị đậm đà của thức ăn khiến tôi nhai một lèo tận 2 bát. Vừa ăn vừa nói, cười. Tiếng nói, tiếng cười không hàm chứa, dung nạp chuyện thế gian. Cánh cửa từ bi được mở ra. Nhân lành được gieo. Quả lành nhận lại. Hờn giận ư? Gian tham ư? Tranh giành ư? Chẳng có cơ hội để mà sống, để mà tồn tại hay cả làm mục rữa cuộc đời. Học Phật. Hành lời Phật dạy. Mỗi ngày trôi qua, là quãng thời gian để chúng ta nhận diện chính mình. Không làm những điều ác. Chỉ làm những điều lành. Ba đời chư Phật dạy. Cả xưa cho đến nay. Hạnh phúc đang được chuyển hoá và sinh sôi như thế.
Những mốc thời gian nhắc nhớ
Mồng một tháng Chạp, có nghĩa là Tết đang xích lại gần. Với cá nhân tôi, sống tha phương, luôn bùi ngùi để được quay về gia đình, được hưởng cái không khí chộn rộn của những ngày giáp Tết. Rồi, khi bánh chưng xanh, câu đối đỏ sáng bừng lên trên ban thờ, giao thừa đến, quây quần bên nhau với quần áo mới, cười chúc cho nhau tất cả những may mắn, an lành. Rồi ra chùa, ra đình, lạy Phật, lạy Thánh, cầu cho mưa thuận gió hoà, gia đình, người thân mạnh khỏe, bình an, bỗng nghe lòng hết bồn chồn. Hội làng Diềm diễn ra vào ngày 6 tháng 2 âm lịch hàng năm tưởng không lớn mà lớn không tưởng. Trong khuôn khổ của chính hội, trước và sau ngày 6 tháng 2, không khí, không gian văn hoá truyền thống ở đây như đưa chúng ta về với lịch sử, với nguồn cội bao đời của ông cha. Những lễ mở cửa đền Vua Bà – Thuỷ tổ của câu quan họ, và những lễ; chạy cờ, rước kiệu, bên cạnh các trò chơi dân gian như: đập niêu đất, bịp mắt bắt vịt, đi cầu khỉ trên cạn, … đã thật sự làm nức lòng những ai được hiện diện, được tham gia trong không gian của lễ hội.
Lễ Phật đản, rồi tiết vu lan báo ân báo hiếu ở chùa Diềm cũng vậy. Giản dị, mộc mạc nhưng vẫn thấm đẫm tình đạo vị dưới chốn già lam thân yêu. Những tiết mục văn nghệ cây nhà lá vườn, những chiếc bánh khúc đặc sản của làng Diềm, những đĩa xôi, bát chè hay canh bún giúp tất cả quây quần bên nhau sau khi tiếng chuông tiếng mõ hoàn mãn. Tiếng nói, nụ cười của tất cả mọi người có mặt như những thanh âm khiến muộn phiền của cuộc sống chật vật ngoài kia ngưng lại. Lời Phật dạy, rồi việc hành lời Phật dạy đã giúp có được sự mầu nhiệm như thế. Ngày giỗ Tổ 25/9 âm lịch hàng năm cũng là dịp để tất cả chư tôn đức Tăng Ni, các cấp lãnh đạo, Phật tử địa phương, thập phương của chùa Hưng Sơn được quây quần. Tiếng hồ hởi từ ngày chuẩn bị, cho đến ngày diễn ra hòa vào với dòng chảy của đất trời, khiến âm vang của sự an yên, tự tại, thảnh thơi giúp bất cứ ai đến với chùa Diềm đều ngỡ như được trở về nhà. Hạnh phúc cứ thế mà vỡ òa.
Chùa Diềm – Ngôi cổ tự nằm sừng sững giữa mảnh đất khai sinh ra câu quan họ thuộc khu Viêm Xá, phường Hòa Long, Thành phố Bắc Ninh, Tỉnh Bắc Ninh. Với chiều dài lịch sử hình thành, tồn tại, phát triển của cảnh và người cho đến hôm nay đã ghi nhận một cách to lớn về sức ảnh hưởng của đạo Phật đối với đời sống nhân dân địa phương và thập phương. Phật giáo – Tôn giáo mang lại cho con người việc nhìn nhận chân thực về giá trị đích thực của kiếp nhân sinh. Sinh – già – bệnh – chết cùng với phạm trù của nhân và quả đã khiến bất cứ ai được tiếp xúc với Phật giáo, với lời Phật dạy, thực hành tại chùa Diềm nói riêng sẽ có được một cuộc sống tự tại và bình an.
Chùa Diềm, ngày 01 tháng 5 năm Quý Mão – Dương lịch 2023
Sự Kế Thừa Và Phát Triển Tư Tưởng Trung Quán Luận Của Bồ Tát Long Thọ Của Đại Đức Thích Quảng Hợp Trụ Trì Chùa Hưng Sơn, Bắc Ninh
Tiến sĩ. Lê Thị Thu Dung[26]
Mở đầu
Đại đức Thích Quảng Hợp (hay Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp) tên thật là Trần Văn Thành, sinh ngày 08 tháng 06 năm 1980, Nguyên quán Đội 6 xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên, TP Hải Phòng. Đại Đức còn có Bút danh Ngọc Anh, Diệu Tường, Trần Thành, QH… Hiện nay Đại đức trụ trì Chùa Song Quỳnh thôn Song Quỳnh, thị trấn Gia Bình huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh và kiêm trụ trì chùa Hưng Sơn khu Viêm Xá, phường Hoà Long, thành phố Bắc Ninh. Tỷ khiêu Thích Quảng bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ Triết học Phật giáo tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ tại Học Viện Khoa Học Xã Hội – Hà Nội. Từ ấy với tư tưởng Trung Quán Luận, triết học Tính Không, duyên khởi, vô ngã là cốt tuỷ chủ Đạo của Phật Giáo nói chung của PG Việt Nam nói riêng được Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp lĩnh hội ý Phật, ứng dụng vào đời sống tu tập, phục vụ tín ngưỡng, hoằng pháp lợi đạo ích đời. Với Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp nhìn sự vật và hiện tượng, các pháp bằng tư tưởng Trung Quán Tính Không diệu hữu nên luôn thấy cảnh thật tại của đời dễ dàng tinh tiến, tâm Bồ Đề luôn khai mở, giác ngộ, giải thoát. Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp làm giảng sư Trường Trung Cấp Phật giáo tỉnh Bắc Ninh giảng Kinh Pháp Cú, tư tưởng cũng trên nền tảng những vàng ngắn nhất của Phật, duy tâm, vô ngã, Tính Không. Trong bài viết này, tác giả trình bày đôi nét về Trung Quán Luận với tư tưởng Tính Không (Chân Không diệu hữu) – một tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam và sự kế thừa, phát triển tư tưởng Trung Quán Luận của Đại đức Thích Quảng Hợp trụ trì chùa Hưng Sơn, thành phố Bắc Ninh, Việt Nam.
(Tác giả Lê Thị Thu Dung bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật học thành công, nhận hoa chúc mừng, 2016)
Từ khóa: Bát Nhã, Phật giáo, Tính Không, thiền tông, Trung Quán Luận.
- Đôi nét về Đại đức Thích Quảng Hợp
Đại đức Thích Quảng Hợp tên thật là Trần Văn Thành, sinh ngày 08 tháng 06 năm 1980, Nguyên quán Đội 6 xã Chính Mỹ, huyện Thuỷ Nguyên, TP Hải Phòng. Đại Đức còn có Bút danh Ngọc Anh, Diệu Tường, QH, Trần Thành.
Hiện nay Đại đức trụ trì Chùa Song Quỳnh thôn Song Quỳnh, thị trấn Gia Bình huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh và kiêm trụ trì chùa Hưng Sơn khu Viêm Xá, phường Hoà Long, thành phố Bắc Ninh. Cha là cụ ông Trần Văn Chuyên (Tự Tâm Đức), mẹ là cụ bà Đỗ Thị Toán, Ông bà sinh được 8 người con (1. Trần Thị Tuyền, 2. Trần Thị Hợp,3. Trần Văn Tuyển, 4. Trần Văn Tuyến, 5. Trần Văn Thành,6. Trần Thị Bình, 7. Trần Thị Thơm, 8. Trần Thị Hoa), 3 trai 5 gái, Đại đức là con thứ 5 trong gia đình, xuất gia đầu Phật, sau này hai em gái út cũng xin đi xuất gia đều thành tựu đạo quả trụ trì chùa trực thuộc huyện Thuỷ Nguyên, TP Hải Phòng. Như Trần Thị Thơm tu ở chùa Đông với pháp danh là TKN Thích Diệu Thuỳ, TKN Thích Diệu Linh (Trần Thị Hoa) trụ trì chùa Cổ Giả xã Gia Đức.
Từ khi Đại đức sinh ra và lớn lên ở với anh trai trưởng là Trần Văn Tuyển ở đội 6 xã Chính Mỹ học cấp 1 và cấp 2 ở xã Chính Mỹ, học cấp 3 Trường THPT Quang Trung xã Mỹ Đồng huyện Thuỷ Nguyên. Năm Đại Đức 15 tuổi ông nội mất, chư Tăng về gia đình trợ duyên hồi hướng ông nội là Trần Văn Mẽ vãng sinh an lạc quốc. Chư Tăng về rất đông là nhờ gia đình đã bao đời theo đạo Phật, đặc biệt có chị gái con bác ruột (anh bố) là Trần Thị Xoa xuất gia đầu Phật làm đệ tử sư cụ Chùa Chân Tiên đặt pháp danh TKN Thích Đàm Định hiện đang trụ trì Chùa Vua Hà Nội thỉnh chư Tăng tri ân báo ân ông nội, một đám tang ông nội rất đông chưa từng có trong làng thôn xã Chính Mỹ, vì số lượng chư Tăng và bà con Phật tử con cháu dài gần 1 km. Trông thế đã biết phước duyên trong gia đình thâm sâu Phật pháp nhường nào.
Một hôm Đại đức cầm quạt mo cau quạt thị giả một vị Tăng thụ trai (dùng cơm) trưa trong đám tang ông nội, vị Tăng trông Đại đức nói: “Đời này là bể khổ, trông tướng con có căn tu, nếu con xuất gia tu được thì đời sướng. Tu sửa ba nghiệp xấu thành ba nghiệp thiện”. Đại đức chắp tay bạch: “A Di Đà Phật, con vâng ạ”. Thế là Đại đức cứ thế nuôi chí xuất gia học Phật trong tâm.
Gia đình bố mẹ Đại Đức làm kinh tế mới ở khu mới thôn 2 Bạch Đằng xã Gia Đức huyện Thuỷ Nguyên, còn Đại đức thì học xong cấp 3 liền phát tâm xuất gia. Trong thời gian cấp ba, Đại Đức tham gia vừa học vừa bán kem để thêm thu nhập giúp gia đình, như đóng học phí…Mỗi khi bán kem thấy trẻ nghèo không có tiền mua Đại Đức rất thương cảm giác như con cháu trong nhà, nhiều khi cho kem hết cả gần thùng…Đây có lẽ là xuất phát của tâm từ trong lòng người muốn xuất Trần thượng sĩ…
Năm 16 tuổi, Đại đức được Thầy Đàm Định Chùa Vua dẫn lên Chùa Vua học oai nghi tại Chùa Vua, Chùa Chân Tiên, gặp Thầy Thích Đức Nguyên rồi sang tu ở Chùa Khoan Tế, Chùa Cự Đà xã Đa Tốn huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Sau Đại đức lại được tham học chính thức làm đệ tử của Hoà Thượng Thích Nguyên Hạnh chùa Tảo Sách, được Hoà thượng Bảo Nghiêm gợi ý nghiệp sư đặt pháp danh cho Trần Văn Thành là Thích Quảng Hợp lễ Quy Tam Bảo ở chùa Tảo Sách, lễ Tổ Chùa Bồ Đề xuống tóc thụ tam Quy ngũ giới, sau tham gia đàn giới do Thành hội Phật giáo Hà Nội tổ chức thành Sa Di (sư bác).
Năm 2002, Thích Quảng Hợp được nghiệp sư cho lên làm thị giả chính trong các thị giả chính của Cố Hoà Thượng Thích Tâm Tịch – Pháp chủ đệ nhị Giáo Hội PG Việt Nam tại Hội Đồng Chứng Minh – trụ sở tại Chùa Quán Sứ, 73 phố Quán Sứ Hà Nội. Trong khi thị giả Pháp Chủ Đệ Nhị Ngài thường bá thí pháp hành, tam nghiệp thanh tịnh, tâm tịch tĩnh tác động mạnh tới Thích Quảng Hợp trầm tư lĩnh hội, ơn Ngài mãi khắc sâu trong tâm chí bậc sơ cơ nhập đạo.
Từ 2002-2006, Đại đức vừa đi học Trường Trung Cấp Phật giáo Hà Nội, năm 2006 Đại đức được thụ giới Tỷ khiêu (Đại đức).
Từ 2003-2008 học Triết học Trường Đại học khxh và Nhân Văn, từ 2006-2010 Học Học Viện PGVN tại Hà Nội, khoá đầu tiên Học Viện PG Hà Nội chuyển lên Sóc Sơn.
Khi ngồi trên ghế nhà trường học viện Phật giáo Việt Nam, Đại Đức quyết tâm học, càng học càng nghiên cứu càng thấy an tâm, để tâm thấu hiểu rất thích triết thuyết “Nhân duyên” trong Trung Quán Luận, đó cũng là Triết lý Duyên sinh, hay duyên khởi, vô ngã, Tính Không trong Phật giáo. Thích tư tưởng Tính Không nên đó là điều đưa ta tiến học để giác ngộ, giải thoát một đời tu hành.
Năm từ 2006 -2013, Đại đức đi lại trông nom tu tạo Chùa Cảm Ứng núi Thiên Thai xã Đông Cứu huyện Gia Bình, Bắc Ninh.
Từ 2009 đến nay Đại đức trụ trì xây dựng Chùa Song Quỳnh, từ 2014 đến nay kiêm trụ trì Chùa Hưng Sơn (làng Diềm), khu Viêm Xá, phường Hoà Long, thành phố Bắc Ninh.
- Sự kế thừa tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ của Đại đức Thích Quảng Hợp
- Đôi nét về tư tưởng tính Không của Bồ tát Long Thọ
Long Thụ, còn gọi là Long Thọ (zh. 龍樹; sa. nāgārjuna नागार्जुन; bo. klu sgrub ཀླུ་སྒྲུབ་), dịch âm là Na-già-át-thụ-na (zh. 那伽閼樹那), Ngài là một vị luận sư vĩ đại của Phật giáo. Đây là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo [27]. Trong Đại thừa của Ấn Độ đã xếp Long Thọ Bồ tát vào “Sáu Bảo Trang của Ấn Độ[28].
Ta có thể thấy trong tranh tượng, thì Long Thọ Bồ tát là vị Phật duy nhất sau Phật Thích-ca được trình bày với chóp trên đỉnh đầu, một dấu hiệu của một Đại nhân (sa. mahāpuruṣa). Ngài là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Truyền thống Mật giáo cũng xếp Ngài vào 84 vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha)[29]
Tác phẩm Trung Quán Luận là bộ luận xuất sắc nhất của Long Thọ với tư tưởng Tính Trung Quán Luận và với trí tuệ xuất sắc “biện tài nghị biện vô ngại”. Lý luận về Tính Không ra đời đã giúp cho hệ tư tưởng Đại thừa Phật giáo phát triển và hoàn thiện về mặt nội dung hình thức. Chính điều đó là nền tảng lý luận vững chắc làm cho các ngoại đạo ở Ấn Độ kinh sợ.
Một chân lý đó là tính Không của Bồ tát Long Thọ không chỉ phủ nhận các pháp giả hữu của tư tưởng Tiểu thừa, biện chứng về tính Không bằng phân tích mọi pháp đều vô thường, vô ngã tức đều giả hữu. Việc nhận thức về Có hay Không cũng chỉ là phương tiện, là cách thức, là con đường đưa chúng sinh thoát khỏi bờ mê, khai tâm, chuyển ý giác ngộ để thoát khổi khổ đau, luân hồi. Trung Quán Luận được Long Thọ luận giải và tập trung triển khai tư tưởng Tính Không trong Kinh Bát Nhã thành hệ triết học Trung Quán của Đại thừa Phật giáo. Phật học và Thiền học Trung Quốc gọi Trung Quán Luận và dòng tư tưởng triết học Tính Không do ông phát triển là “Không Luận”. Thành tựu Phật học mà Long Thọ đã đem lại cho kinh điển Đại thừa là trên phương diện triết học tôn giáo. Vì trước đó, theo tinh thần trước thuật tỉ mỉ và kinh viện của Tiểu thừa, thì các kinh điển Đại thừa, kể cả Kinh Bát Nhã, đều bị đánh giá thấp, bị coi như một thứ Phật giáo văn nghệ. Long Thọ được coi là người tiên phong đặt tiền đề tư tưởng căn bản cho phong trào Đại thừa. Tư tưởng Tính Không và Hai chân lý trong Bát Nhã được Long Thọ triển khai trong Trung Quán Luận đã trở thành cơ sở lý luận để Thiền học gợi mở một phong cách “phá chấp”, không câu nệ vào kinh điển, vào hình thức tu, vào phương pháp tu, mà chú trọng hơn về giải thoát nội tâm. Do vậy, ông được tôn làm tổ thứ 14 của Thiền Phật giáo. Luận sư Long Thọ đã luận giải về pháp Duyên Khởi, về “Bát bất tụng” tức thuyết minh về duyên khởi, Lục thập như lý luận cũng nêu:
Phải nên lấy pháp nào,
Đoạn sạch các sinh diệt?
Kính lễ Đức Thế Tôn,
Tuyên thuyết các duyên khởi
Thất thập không luận cũng nêu:
Vì các pháp tính không,
Nên Phật thuyết các pháp,
Đều từ nhân duyên khởi,
Thắng nghĩa chỉ như thế.
- Bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hoa tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ của Đại đức Thích Quảng Hợp
Trung Quán Luận là bộ luận xuất sắc của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna). Trung Quán Luận là sự kế thừa phát triển tư tưởng Tính Không trong kinh Bát Nhã, khẳng định mọi vật, hiện tượng có được đều do triết lý Duyên Sinh, Vô Ngã; một khi xả chấp sẽ không sai lầm, đó cũng là hướng khắc phục mọi khó khăn trên con đường giác ngộ, giải thoát.
Các Phật tử chúc mừng Đại đức Thích Quảng Hợp bảo vệ luận án Tiến sĩ triết học về Tư tưởng Tính Không của Bồ tát Long Thọ thành công tại Học viện khoa học xã hội, Viện Hàn Lâm VN, 2016
Thiền Phật giáo của Việt Nam luôn chứa đựng tư tưởng “Tính Không” và đôi khi còn thể hiện sự vận dụng rất sáng tạo, thoát ra khỏi ngôn ngữ vay mượn của Trung Hoa, mà được Việt hóa một cách linh động, gần gũi. Chẳng hạn, khi nói “Đối diện vô tâm chớ hỏi thiền” là đã vận dụng thuyết Tính Không trong Trung Quán Luận. Tính Không trong Trung Quán Luận còn có nghĩa không cần phải dùng ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu Tính Không trong ấy. Ngày nay, Phật giáo trong nước đang ở đỉnh cao phát triển nên tư tưởng Tính Không trong Trung Quán Luận cũng đang được nghiên cứu và từng bước ứng dụng tác dụng vào lý luận và cuộc sống đời thường. Từ khía cạnh tư tưởng lịch sử, Tính Không và Trung Quán Luận vẫn có ý nghĩa khẳng định giá trị độc đáo của tư duy Phật giáo. Nhận thức luận của Trung Quán chính là lý luận về trực giác trí tuệ (Bát Nhã siêu việt), nó giúp con người có hướng rèn luyện, thực hành để có thể khai tỏ tư duy giác tính, nhìn nhận vạn hữu thấy cảnh như thật của chính nó. Nhìn chung, tư tưởng triết học trong Trung Quán Luận của Long Thọ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển Thiền học, Phật học – một bộ phận của triết học Phật giáo – cũng như thực hành thiền – định ở Phật giáo Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản… Ngày nay, tư tưởng triết học của Trung Quán Luận đang được giới thiệu bằng nhiều tuyến (tôn giáo Phương Đông, văn hóa truyền thống, dưỡng sinh Phương Đông…) sang Tây Âu và được đón nhận rất nhiệt tình.
Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp từng làm thư ký Phật giáo huyện Gia Bình khoá (2006-2010), năm 2012 tốt nghiệp thạc sĩ Triết học, năm 2013 thi đỗ Nghiên cứu sinh, năm 2016 bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ Triết học Phật giáo tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ tại Học Viện Khoa Học Xã Hội – Hà Nội. Từ ấy với tư tưởng Trung Quán Luận, triết học Tính Không, duyên khởi, vô ngã là cốt tuỷ chủ Đạo của Phật Giáo nói chung của Phật giáo Việt Nam nói riêng được Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp lĩnh hội ý Phật, ứng dụng vào đời sống tu tập, phục vụ tín ngưỡng, hoằng pháp lợi đạo ích đời. Với Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp nhìn sự vật và hiện tượng, các pháp bằng tư tưởng Trung Quán Tính Không diệu hữu nên luôn thấy cảnh thật tại của đời dễ dàng, sự việc khó khăn thành dễ dàng, dễ dàng như không khó khăn, tinh tiến, tâm Bồ Đề luôn khai mở, giác ngộ, giải thoát.
Năm 2015, Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp làm giảng sư Trường Trung Cấp Phật giáo tỉnh Bắc Ninh giảng Kinh Pháp Cú, tư tưởng cũng trên nền tảng những lời vàng ngắn nhất của Phật, duy tâm, vô ngã, Tính Không.
Ngoài ra Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp chủ trì hội nghị viết sách: Ni trưởng Thích Đàm Nhuận, một đời chân tu năm 2019, năm 2018 chủ biên tập thơ “Thơ Thường Thức” (Nhiều tác giả)
*Một số tác phẩm về Tính Không Trung Quán của Bồ Tát Long Thọ mà Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp trình diện:
- Năm 2013 Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp viết tác phẩm “Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ” được ấn phẩm tại Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo số 2 (tr. 32 – 37).
- Lê Thị Thu Dung – Trần Văn Thành (2013), Tính Không trong Trung Quán Luận với việc tham gia giao thông ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 9, tr. 68 – 77.
- Thích Quảng Hợp (Trần Văn Thành) (2014), Tìm hiểu đôi nét ảnh hưởng của Trung Quán Luận trong lịch sử phát triển Phật giáo, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 1, tr. 68 – 77.
- Trần Văn Thành (Thích Quảng Hợp) (2015), Trung Quán Luận trong lịch sử phát triển Phật giáo, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 3, tr.26- 38
- Thích Quảng Hợp (Trần Văn Thành) (6/2015), Duyên khởi trong Trung Quán Luận và ảnh hưởng của nó tới Thiền Phật giáo thời Lý Trần, Tạp chí giáo dục lý luận, số 230, tr.156 – 160.
- Luận Văn Thạc sĩ: “Tư Tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ và ý Nghĩa của nó”, Trần Văn Thành, năm 2012
- Luận Án Tiến sĩ triết học: “Nguyên lý Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ và ý nghĩa của nó”, Trần Văn Thành, 2016.
- Ngoài ra Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp còn chủ trì nhiều hội nghị khoa học trực tuyến và báo cáo nhiều bài tham học về lĩnh vực Phật giáo trong lĩnh vực quốc tế và trong nước…
Nghiên cứu Tính Không, họ cho rằng Tính Không nhà Phật có thể hoá giải các phiền não: tham, sân, si, nhận chân được Tâm Không, có định, đắc tuệ, góp phần người tu làm chủ chính niệm, tín sâu Tam Bảo, phát Tâm Bồ đề, Hiếu dưỡng mẹ cha, phụng sự sư trưởng, sống từ bi và trí tuệ góp phần cuộc sống xã hội ngày nay tốt đẹp hơn, biến cõi Sa Bà ngũ trược ác thế thành cực lạc (tịnh độ) hiện tiền, cảnh Tây phương tại tâm. Chính báo và y báo của chúng sinh thật trang nghiêm, tú lệ.
Tính không trong tâm của tỷ khiêu Thích Quảng Hợp đã hoà nhập với tính Không của vạn pháp là một thể không hai. Theo khế Kinh Phật dạy, ai thấy Duyên khởi Tính Không thì người ấy như thấy Tính Phật, thật an nội tâm, tâm thư thái, ảnh hưởng lan tỏa mạnh ý nghĩa với đời, chúng sinh biết khổ được vui.
Hiện nay, Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp vẫn đang trụ trì 2 chùa Chùa Song Quỳnh và chùa Hưng Sơn tỉnh Bắc Ninh, và an cư tham gia ban Giảng sư tại Hạ Trường Linh Quang thiền tự (Chùa Bà Đá) thủ Đô Hà Nội, Phật lịch 2568 – dương lịch 2024. Trong cuộc người luôn tu hành theo lời Phật dạy, làm lành, lánh ác trên lập trường mở Tính Không diệu hữu:
Các pháp do duyên sinh
Nên ta nói là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo.
Kết luận
Có thể thấy quá trình tu học của Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp luôn gắn liền với tư tưởng Tính Không trong Trung Quán Luận của Bồ tát Long Thọ. Và Đại đức lấy đó làm kim chỉ nam cho bước đường hành đạo và hoằng dương Phật pháp. Tự tu tự sửa và lan tỏa những giá trị cốt lõi ấy trong đời sống nhân sinh đó chính là vô lượng công đức bố thí Pháp. Thế giới ngày càng biến động, công nghệ thông tin ngày càng phát triển và nhận thức con người cũng có nhiều thay đổi nhưng những nền tảng đạo đức, văn hóa, giáo dục vẫn là những yếu tố cơ bản tạo nên một chỉnh thể xã hội. Chính từ trong nội tại sự vận động đó ta mới thấy ý nghĩa to lớn của tư tưởng Trung Quán Luận, đối với sự cân bằng của con người khi tìm chân lý giải thoát. Tỷ khiêu Thích Quảng Hợp bằng tâm trong sáng Đại đức đã nhìn rõ tầm quan trọng đó, nên Đại đức đã vận dụng tư tưởng học thuật với ứng dụng công nghệ thông tin trong thời đại chuyển đổi số để đa dạng hóa các hình thức để chia sẻ, giảng pháp để mọi chúng sinh dù ở bất cứ đâu cũng có thể đến gần với giáo lý nhà Phật.
Quảng đại chúng sinh hữu
Hợp nhất thiên địa trung
Hưng long hồi quy Phật
Sơn tự tọa năng thiền./.
Chùa Diềm Quê Hương Yêu Dấu
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Trà – Làng Diềm
Tôi sinh ra và lớn lên ở Làng Diềm, tôi nhớ làng Diềm tên chữ là Viêm Xá, trước kia thuộc tổng Châm Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, ngày nay là khu Viêm Xá thuộc phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Xưa làng có tên là Viêm Ấp, hay là Ấp Viêm Trang. Các di vật khảo cổ (đồ đồng, đồ gốm…) tìm thấy trong một số ngôi mộ cổ trên núi Kim Sơn (núi Quả Cảm) cho thấy làng Diềm và một số làng lân cận vùng này là nơi tụ cư của người Việt cổ từ trước thời thuộc Hán.
Các di tích lịch sử văn hóa làng Diềm địa thế rất hài hòa phía đằng trước làng gồm: Đền Đức Vua Bà, Đình làng, Chùa Hưng Sơn và Đền Cùng Giếng Ngọc hay còn gọi là Đền Giếng. Phía trước Đình có một bãi đất trống dùng làm sân vận động và nơi dựng sân khấu biểu diễn mỗi khi làng mở hội. Đằng trước sân có một hồ nước lớn. Phía sau làng là con sông Cầu thơ mộng, dòng sông gắn với những trang sử hào hùng của dân tộc. Phía trên Đền Giếng có núi Kim Sơn, tạo cho làng Diềm một bức tranh sơn thủy hữu tình.
Tôi cũng như bao người khác đều có một ký ức tuổi thơ về quê hương, làng xóm. Trong đó ký ức của tôi về học tập, sinh hoạt và vui chơi ở nơi đây cho đến giờ tôi vẫn không thể nào quên phải kể đến đó là ngôi Chùa làng. Thời còn học tiểu học ở những thế hệ 7x và 8x chúng tôi được học cạnh gần ngôi Chùa. Cùng với câu hỏi quen thuộc “Học ở đâu đấy?” và câu trả lời là học ở Chùa. Đó không phải là chúng tôi học trong Chùa mà ngay sát cạnh ngôi Chùa có những ngôi nhà cấp 4 là nơi chúng tôi được học tập ở đó. Chúng tôi vẫn thường chơi xung quanh Chùa mỗi khi giờ ra chơi hoặc tan lớp. Có thể nói đây cũng là tâm trạng của tôi cũng như bao nhiêu người con xa quê hương khi nghĩ về quê hương ở cái thế hệ thời đó, nơi ngôi Chùa làng gắn kết bao nhiêu kỷ niệm cùng cây đa bến nước bên Đình. Những năm gần đây, được sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp cùng với kinh tế của nhân dân trong làng có phần cải thiện nên phong trào tham gia tự nguyện cúng dường, đóng góp công, sức, tiền của để sửa chữa, tô quét lại ngôi chùa và vật kiến trúc của chùa ngày càng khang trang và đẹp đẽ hơn.
Chính điện Chùa Hưng Sơn, 2024. ảnh: Trần Thành
Ngôi Chùa làng đó tên là Chùa Hưng Sơn tọa lạc tại khu Viêm Xá, phường Hoà Long, TP Bắc Ninh, chùa có từ lầu đời nên có nhiều thế hệ sư về trụ trì phục vụ tín ngưỡng, thời tôi được chứng kiến rõ nhất, vào khoảng năm 2003, địa phương dân làng quen Phật tử Nguyễn Tiến Vượng – TP Hà Nội là một mạnh thường quân, hộ trì Phật pháp đã thỉnh sư Cụ Thích Đàm Nhuận – Chùa Chân Tiên Hà Nội về trụ trì, cụ rất nhiệt tình hướng dẫn chính quyền và nhân dân tu sửa chùa chiền cho đúng với chính pháp, quy củ thiền gia, không mất cái nét văn hóa cổ, không ảnh hưởng tới tâm linh hiện tại, do tuổi cao Cụ đã cho pháp Tôn Thích Diệu Thủy về trụ trì phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân địa phương, tới năm 2013 duyên đủ, Thầy Thích Diệu Thủy chuyển về chùa Chân Tiên tu hành, Nhân dân và chính quyền địa phương nhờ biết Phật pháp, giao lưu chư Tăng đã thỉnh Đại đức Thích Quảng Hợp về trụ trì chùa Hưng Sơn từ tháng 07/2014 tới nay.
Chùa Hưng Sơn (Làng Diềm) xưa được các cụ kể lại thì chùa đã có từ rất lâu đời, khuôn viên rộng, kiến trúc gồm có 100 gian, là Trường Hạ của các tăng ni tu học. Chùa Hưng Sơn là một trong những danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Xưa kia tọa lạc ở khu Mả Bến, đến năm Canh Dần (1710) được dời về địa điểm hiện nay, nằm ngay cạnh đền Vua Bà, đây là địa thế đẹp nhất làng. Chùa có quy mô kiến trúc khá bề thế, gồm 9 tòa nhà (55 gian). Cổng tam quan, gác chuông uy nghiêm, nhà tam bảo 7 gian nối với nhà ống muống, phía sau là nhà trai, nhà tổ. Kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ lim, chạm khắc trang trí khá tinh xảo. Hiện vật tượng trong chùa khá phong phú tập trung ở các di vật cổ. Hệ thống tượng Phật chất liệu gỗ là những tác phẩm điêu khắc Phật Giáo tiêu biểu các thế kỷ XVII, XVIII. Bức cửa võng và năm bức y môn của chùa, là những bức chạm khắc tinh tế, với hình thức chạm lộng thời Nguyễn. Chuông đồng, bia đá phần lớn bị thất lạc, hiện còn hai tấm bia đá “Hưng Sơn thiền tự bi” dựng năm 1683 và 1777 ghi việc tu sửa chùa Hưng Sơn, đúc chuông chùa Hưng Sơn năm 1649 cách đây chừng 374 năm. Đáng chú ý nhà chùa còn lưu giữ được một số ván khắc kinh Phật, hương án gỗ và một số đồ thờ tự khác nữa.
Những người trong làng Diềm cho biết, trước kia Đức Vua Bà còn được thờ làm tổ của chùa Hưng Sơn. Khi Trương Hống, Trương Hát, đóng quân tại làng Diềm trong cuộc kháng chiến chống giặc Lương, các ông có ngủ lại chùa Hưng Sơn, một đêm các ông mơ thấy có người phụ nữ hiện về và báo mộng: Muốn đánh thắng được giặc Lương thì nên kéo quân về đầm Dạ Trạch mà mai phục, ắt sẽ đánh thắng. Dân làng đồn rằng người phụ nữ báo mộng đó chính là Đức Vua Bà hiện về phù hộ cho các ông. Khi Thánh Tam Giang hiển Thánh, nhị vị Đức Thánh được dân làng thờ ở Đình, Đức Vua Bà được chuyển sang thờ ở Đền.
Mỗi khi đi xa, người Việt Nam đều nhớ về quê hương. Trong tâm thức họ là những hình ảnh mái chùa, ngọn tháp, tiếng chuông, những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và không thể thiếu được trong cuộc sống tâm linh của người dân. Chùa Diềm là một bằng chứng vật chất phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là một biểu hiện cụ thể nhất về bản sắc văn hóa Việt Nam. Hiện nay trong xu thế phát triển của xã hội đòi hòi phải có sự giao lưu với thế giới nên không thể tránh khỏi việc giao lưu văn hóa. Cho nên việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức cần thiết, vì chính ở các di tích lịch sử văn hóa ta tìm thấy được bản sắc văn hóa dân tộc rõ nét nhất.
Trên đây là những tài liệu tôi đọc được, đồng thời là con em trong làng, khi về chùa lễ Phật, gặp các cụ và sư Thầy chia sẻ nói chuyện mời tôi tham gia viết bài để góp phần tư liệu cho cuốn sách chùa Diềm thêm hoàn hảo. Có viết có ghi thì đời sau mới có y cứ văn hóa tâm linh rõ ràng. Bằng tấm lòng người con gái gốc làng Diềm khi lấy chồng xa được tham gia viết sách chùa quê là một diễm phúc, với tuổi trẻ, ham học hỏi với kiến thức về chùa làng Diềm vẫn còn hạn chế, nhưng không hề quải ngại, tôi xin viết ra kính gửi nhà chùa tham khảo biên tập để thêm phần tiếp cận hé mở viết về sách Chùa Diềm tốt đẹp hơn. Trong khi trình bày không sao tránh khỏi khiếm khuyết kính mong Thầy chùa và các nhà khoa học, trí thức hoan hỉ bỏ qua, góp ý cho bài được tốt thêm.
Cuối cùng, tôi (con) xin kính chúc Thầy chùa cùng toàn dân mạnh khỏe, bình an, quan tâm giúp đỡ để cuốn sách chùa Hưng Sơn sớm được trình diện trong cuộc sống.
Nam mô A Di Đà Phật!
Bắc Ninh, ngày 04/09/2023
Vu Lan Báo Hiếu Chùa Hưng Sơn làng Diềm
Tác giả: Quốc Minh – Diềm
Xuất phát từ điển tích Phật giáo được ghi lại trong Kinh Vu Lan Bồn, người đầu tiên được tiếp nhận là Tôn Giả Mục Kiền Liên. Do có Tâm Hiếu lớn lao, muốn cứu với Mẹ Thanh Đề thoát khỏi A Tỳ Ngục, nên Ngài đã được Đức Phật chỉ dạy phương thức Cứu khổ báo hiếu, và từ đó đã thành lễ Vu Lan Báo Hiếu” trong Đạo Phật. Trong các cung bậc tri ân, Đạo Phật coi Hạnh Hiếu là trên hết. Ca dao Việt Nam cũng có câu:
Phụng thờ cha mẹ hết lòng
Ấy là chữ Hiếu dạy trong Luân thường
Do vậy mà Đạo Phật còn được gọi là Đạo Hiếu. Vu Lan Bồn: giải cứu tội bị treo ngược. Báo Hiếu, nhớ ơn báo đáp các bậc Tiến Tổ quá vãng cũng như hiện tiền.
Tiếp nối truyền thống tốt đẹp đó, Chùa Hưng Sơn từ khi khai sáng đến nay, hàng năm vào dịp Rằm tháng 7, Chùa vẫn thường tổ chức lễ Vũ Lan Báo Hiếu. Những năm gần đây lễ Vu Lan Báo Hiếu ngày càng lan tỏa, không chỉ trong Đạo Phật mà đã thấm ra mọi tầng lớp nhân dân. Cứ mỗi độ thu về, Phật tử và nhân dân lại háo hức hưởng về lễ Vu Lan, hoài niệm tình Cha nghĩa Mẹ, Gia Tộc Tổ Tiên, đợi chờ thương nhớ bằng khuâng, hiện tại và quá thứ cứ đan xen, hòa quyện trong lòng “Hồi ức làm ta muốn khóc”. Càng gần ngày tổ chức đại lễ Rằm tháng Bảy, không khí trong chùa càng thêm rộn rã, các Phật tử, thiện nam tín nữ, mỗi người mỗi việc, bao sái Tượng Phật, nơi thờ tự, vệ sinh trong ngoài chùa, kết đèn hoa, dâng lễ lạt, rồi chuẩn bị đón Quý Thầy mừng ngày Chư Tăng Tự. Tứ Quý Thầy mãn kỳ An cư kiết hạ sau ba tháng thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, gương mặt người nào cũng hiện rõ niềm hân hoan, thành kính tri ân . Ngày chính lễ, mở đầu là tiếng chuông trông Bát Nhã vang lên tay động lòng người, đưa ta vào tỉnh thức, thật như lời chư Tổ. Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới khắp nơi tăm tối thảy đều nghe Những ai lạc bước mau dừng lại tỉnh giấc cơn mê tỏ lối về. Đại chúng đồng niệm Phật gieo duyên, thỉnh rước Quý Thầy thật phấn khích trang nghiêm.
Trong buổi lễ được nghe Quý Thầy giảng Pháp, chia sẻ cho đại chúng về nguồn gốc, ý nghĩa, mục đích của lễ Vu Lan Báo Hiếu, thực thi đạo sống làm người. Kinh Tứ Phập Nhị Chương đã ghi : Phụng thờ Quỷ Thần không bằng Phụng thờ Cha Mẹ, vì Cha Mẹ là những vị Thần Tối Thượng”. Kinh Đại Tập cũng ghi : Nếu ở đời không có Phật thì hãy theo Phụng thờ Cha cũng như Phụng thờ Phật, Phụng thờ cả hiện tiền và quá vãng.
Lầu Quán Âm tại Chùa Hưng Sơn, 2023. Trần Thành
Pháp nhũ mà Quý Thầy ban bố đã thấm sâu vào tâm thức của mỗi người, nghe càng ngậm ngùi thấm đọng. Nỗi buồn man mác trong lòng, thương nhớ Người xưa, Tiên Tổ, trộn lẫn niềm vui an lạc. Sau thời tụng kinh hồi hướng đến mục “Bông hồng cài áo”, một nét đặc thù của lễ Vu lan, nhiều người đã không cầm lòng nổi, ngấn lệ cứ dâng trào thấy sao mà cảm động… Buổi tối có chương trình văn nghệ chào mừng, kết Hoa đăng, thả thuyền Bát Nhã, làm cho không khí ngày lễ càng thêm phần uy linh, được mọi người hoàn hỷ. Vu Lan Báo Hiếu là phương tiện tuyệt vời để Quý Thầy Hoàng Pháp Độ sinh, khắc sâu thêm; Giáo lý Tỉnh Thức của Đạo Giác ngộ Giải thoát, cho đại chúng thấy rõ ý nghĩa nhân văn cao cả của Vu Lan Báo Hiếu.
-Sự báo hiếu: cả quá vãng và hiện tiền. -Cứu khổ (giải đảo huyền) là giải tội bị treo ngược. -Nét truyền thống của người Phật tử là Tri Ân báo đáp Tứ Ân Cha Mẹ Tổ Tiên, Thầy Tổ, Quốc gia và Chúng sinh.
Trong cuộc sống hiện tại phải sống thuận thảo mẹ cha, bà con anh em, bè bạn .Có thể nói Vu Lan Báo Hiếu là điểm gặp gỡ của tinh thần Báo Hiếu, kết nối mọi người, làm cho Đạo Phật được thấm sâu, lan tỏa, để ngày càng có nhiều người biết hướng về Tam Bảo.
Nam Mô A Di Đà Phật!
[1] Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Người cao tuổi thủ đô Hà Nội
[2] Tên chữ là Viêm Xá, xưa kia là Ấp Viêm Trang, thuộc xã Hòa Long
[3] Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Sông Cầu còn có tên là sông Phú Lương, sông Như Nguyệt, sông Nguyệt Đức, sông Thị Cầu, dài 290 km, bắt nguồn từ dãy núi Phia Boóc cao 1.578 m ở Bắc Kạn, chảy ngoằn ngoèo qua Thái Nguyên, Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang rồi hợp lưu với Sông Thương tại Ngã ba Lác (Phả Lại, Hải Dương) để tạo thành sông Thái Bình.
[4] Lục Đầu Giang là nơi hội tụ của sáu dòng sông: Sông Cầu, Sông Thương, sông Lục Nam, Sông Đuống, sông Thái Bình và sông Kinh Thầy. Bốn dòng sông từ thượng nguồn về đều được nhà Lý đặt tên có chữ Đức: Sông Cầu – Nguyệt Đức, Sông Đuống – Thiên Đức, Sông Thương – Nhật Đức, sông Lục Nam – Minh Đức. Bốn dòng sông này hợp lưu với sông Thái Bình và sông Kinh Thầy đồ ra biển, tạo nên một vùng đất trù phú, mang đậm dấu ấn lịch sử và văn hóa vô cùng đặc sắc, là một vùng “địa linh nhân kiệt” nức tiếng của nước ta.
[5] Theo Quyết định số 29 – VH/QĐ ngày 13/1/1964 của Bộ Văn hóa
[6] Tức Trương Hống, Trương Hát, hai anh em đã cùng Triệu Quang Phục đánh giặc Lương thế kỷ thứ VI, lại hiển linh đọc bài thơ Thần Nam quốc sơn hà giúp Thái úy Lý Thường Kiệt chiến thắng 30 vạn quân Tống năm 1077, trên phòng tuyến Như Nguyệt (Sông Cầu). Ở ven Sông Cầu, có 372 làng thờ anh em Ngài là Thành hoàng.
[7] Ngôi đền thờ Vua Bà đã được Bộ Văn hóa Thông tin cấp Bằng Di tích Lịch sử văn hóa ngày 12/ 12/1994.
[8] Ngày 30/9/2009, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) công nhận Quan họ là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
[9] Năm 2014, Lễ hội làng Diềm được nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
[10] Do Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp thực hiện trước năm 1945, được lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (kí hiệu 5279/ab).
[11] Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội 2020, trong thành vua Lý Thái Tổ cho dựng chùa Vạn Tuế, ngoài thành dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Chân Giáo; cho lập trường giới ở chùa Vạn Tuế, xuất của kho đúc chuông chùa Hưng Thiên, chùa Thắng Nghiêm,…
[12] Lê Hoàn đã đổi châu Cổ Lâm thành châu Cổ Pháp. Khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đổi châu Cổ Pháp thành Phủ Thiên Đức, sông Bắc Giang (Sông Đuống) thành sông Thiên Đức – theo Đại Việt sử ký Toàn thư, sđd, trang 194.
[13] Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư, sách đã dẫn, trang 196.
[14] Làng Hoài Thị thường gọi là Làng Bịu hay Bựu Sim, nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài những người kết chạ, thanh niên nam nữ hai làng có thể lấy nhau như thường.
[15] Ngày 16/10/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 787/NQ-UBTVQH 14 thành lập phường Hòa Long, chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hòa Long thành phường Hòa Long, cả 7 làng là Quả Cảm, Đẩu Hàn, Hữu Chấp, Viêm Xá (Diềm), Xuân Đồng, Xuân Viên, Xuân Ái thành các khu tương ứng.
[16] Theo Nguyễn tộc Yên Mẫn, trong bài Quan họ làng Diềm (Viêm Xá) xưa và nay
[17] Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam của NXB Giáo dục, do Trương Hữu Quýnh chủ biên, Hà Nội 1998, tập 1, tr 158
[18] Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam, sdd, tr 161: “Lý Thường Kiệt cử hai hoàng tử Hoàng Chân và Chiêu Văn đem 400 chiến thuyền chở hai vạn quân từ Vạn Xuân ngược sông Như Nguyệt mở một cuộc tiến công vào doanh trại Quách Quỳ…”.
[19] Giếng của người Chăm thường có hình vuông, khác giếng của người Kinh thường có hình tròn.
[20] Lý Nam Đế (503 – 548), vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lý, có công đánh đuổi quân nhà Lương và Lâm Ấp, lập ra nước Vạn Xuân. Năm 544, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở vùng cửa sông Tô Lịch (Hà Nội).
[21] Đền Xà thuộc thôn Xà Đoài (tên nôm là Làng Xà), xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
[22] Nguyên Hội trưởng Người Cao tuổi khu Viêm Xá, P. Hòa Long, TP Bắc Ninh; ĐT: 0989.238.735
[23] Gồm: Đức Tam Giang, Nam Hải, Đô Thống, Giáp Ngọ và Ngũ Vị
[24] Thiền sư Hải Thuận được người xưa sắc ban cho đạo hiệu là Chân Tâm Hòa thượng (theo Báo Bắc Ninh đăng bài viết: Độc đáo chốn tổ Bảo Quang Tự , tác giả: Nguyễn Văn An (bảo tàng tỉnh Bắc Ninh), ngày 26.11.2021
[25] Vị trí: nhà bảy gian: phía trước nhìn vào hậu cung chùa cũ, phía phải giáp gia đình ông bà Quần Hàn, phía sau giáp 1 nhà dân, phía trái giáp đường cái làng cạnh là Đền Thờ Vua Bà.
[26] Tiến sĩ Lê Thị Thu Dung (pháp danh Pháp Dung), quê huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng; Viện KSND huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng; Email:Ledungksv@gmail.com
[27] Lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni, lần thứ ba là sự xuất hiện của giáo pháp Đát-đặc-la.
[28] Năm vị khác là Thánh Thiên (sa. āryadeva), Vô Trước (sa. asaṅga), Thế Thân (sa. vasubandhu), Trần-na (sa. diṅnāga, dignāga), Pháp Xứng (sa. dharmakīrti).
[29] https://vi.wikipedia.org/wiki (tra cứu 16 giờ 40 phút ngày 08/11/2022)
(còn tiếp)
Ban biên tập pháp học. com

